Để hiểu đúng khái
niệm về SDH/SONET, trước hết ta cần hiểu đúng thế nào là đồng bộ, không
đồng bộ và cận đồng bộ. Trong tập các tín hiệu đồng bộ, việc chuyển tiếp
số liệu trong tín hiệu xảy ra ở chính xác cùng một tốc độ. Tuy nhiên
vẫn có sự lệch pha giữa những lần chuyển giao của hai tín hiệu, và sự
lệch pha này nằm trong giới hạn cho phép. Sự lệch pha này có thể do suy
hao, trễ thời gian hay jitter trong mạng truyền dẫn. Trong mạng đồng
bộ, tất cả các đồng hồ đều tham chiếu đến một đồng hồ chuẩn cơ sở PRC.
1. Nhược điểm của truyền dẫn cận đồng bộ PDH
1.1. Khái niệm truyền dẫn cận đồng bộ (PDH)
Vì
các luồng 2Mbit/s được tạo ra từ các thiết bị ghép kênh khác nhau, nên
tốc độ bit có khác nhau một chút. Do đó, trước khi ghép các luồng này
thành một luồng tốc độ cao hơn phải hiệu chỉnh cho tốc độ bit của chúng
bằng nhau, tức là phải chèn thêm các bit giả. Mặc dù tốc độ các luồng
đầu vào là như nhau, nhưng phía thu không thể nhận biết được vị trí của
các luồng đầu vào trong luồng đầu ra. Kiểu ghép kênh như vậy gọi là cận
đồng bộ (PlesioSynchronous).
1.2. Nhược điểm của PDH
· Việc tách/xen các luồng 2Mbit/s phức tạp làm giảm độ tin cậy cũng như chất lượng của hệ thống.
· Khả
năng giám sát và quản lý mạng kém. Do trong các khung tín hiệu PDH
không đủ các byte nghiệp vụ để cung cấp thông tin cho điều khiển, quản
lý, giám sát và bảo dưỡng hệ thống.
· Tốc
độ bit của PDH không cao (tốc độ bit cao nhất được chuẩn hoá là
140Mbit/s trên mạng viễn thông quốc tế) không thể đáp ứng cho nhu cầu
phát triển các dịch vụ băng rộng hiện tại và trong tương lai.
· Thiết bị PDH cồng kềnh, các thiết bị ghép kênh và thiết bị đầu cuối thường độc lập nhau.
· Trên
mạng viễn thông tồn tại 2 tiêu chuẩn phân cấp khác nhau: chuẩn Châu Âu
và Châu Mỹ, gây khó khăn và phức tạp khi nâng cấp, mở rộng và kết nối
các mạng với nhau.
Các mặt hạn chế trên của PDH sẽ được khắc phục khi sử dụng phân cấp truyền dẫn đồng bộ SDH.
2. Truyền dẫn đồng bộ SDH
2.1. Khái niệm SDH
Để
hiểu đúng khái niệm về SDH/SONET, trước hết ta cần hiểu đúng thế nào là
đồng bộ, không đồng bộ và cận đồng bộ. Trong tập các tín hiệu đồng bộ,
việc chuyển tiếp số liệu trong tín hiệu xảy ra ở chính xác cùng một tốc
độ. Tuy nhiên vẫn có sự lệch pha giữa những lần chuyển giao của hai tín
hiệu, và sự lệch pha này nằm trong giới hạn cho phép. Sự
lệch pha này có thể do suy hao, trễ thời gian hay jitter trong mạng
truyền dẫn. Trong mạng đồng bộ, tất cả các đồng hồ đều tham chiếu đến
một đồng hồ chuẩn cơ sở PRC. Độ chính xác của PRC là 10-12 - 10-11 và được lấy từ đồng hồ nguyên tử Cesium.
Hai
tín hiệu số là cận đồng bộ nếu sự chuyển tiếp xảy ra gần như ở cùng tốc
độ, và bất kỳ sự thay đổi nào cũng được cưỡng bức trong một giới hạn
nhỏ. Ví dụ nếu có hai mạng tương tác với nhau, xung đồng hồ của chúng có
thể lấy từ hai PRC khác nhau. Mặc dù các PRC này vô cùng chính xác,
nhưng vẫn có sự khác nhau giữa hai loại. Điều này gọi là sự sai khác cận
đồng bộ.
Trong
trường hợp mạng không đồng bộ, sự chuyển giao tín hiệu không nhất thiết
phải xảy ra ở cùng tốc độ. Trong trường hợp này, không đồng bộ có nghĩa
là sai khác giữa hai đồng hồ lớn hơn sai khác cận đồng bộ. Ví dụ, nếu
hai đồng hồ lấy từ dao động thạch anh tự do, chúng được gọi là không
đồng bộ. Phân cấp số cận đồng bộ
SDH và mạng quang đồng bộ SONET chỉ một tập hợp các tốc độ truyền dẫn
bằng cáp sợi quang có thể truyền tải tín hiệu số với dung lượng khác
nhau.
Người
ta chấp nhận rộng rãi rằng một phương thức ghép kênh mới có thể được
đồng bộ và không chỉ dựa trên việc chèn bit, gọi là PDH, mà còn dựa trên
việc chèn byte, là các cấu trúc ghép kênh từ 64kbit/s đến tốc độ cơ sở
1,544kbit/s (1,5Mbit/s) và 2,048kbit/s (2Mbit/s).
SDH
được định nghĩa bởi Viện tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu (ETSI), được sử
dụng ở rất nhiều nước trên thế giới. Nhật Bản và Bắc Mỹ cũng xây dựng
các tiêu chuẩn về SDH riêng. SONET do Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ
phát triển và được ứng dụng ở Bắc Mỹ.
2.2. Các tiêu chuẩn SDH
Tiêu
chuẩn mới xuất hiện lần đầu tiên là SONET do công ty Bellcore (Mỹ) đưa
ra, được chỉnh sửa nhiều lần trước khi trở thành tiêu chẩn SDH quốc tế.
Cả SDH và SONET được giới thiệu rộng rãi giữa những năm 1988 và 1992.
SDH được định nghĩa bởi Viện tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu (ETSI), được
sử dụng ở rất nhiều nước trên thế giới. Nhật Bản và Bắc Mỹ cũng xây dựng
các tiêu chuẩn về SDH riêng. SONET do Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ
phát triển và được ứng dụng ở Bắc Mỹ.
Bảng dưới đây thể hiện các tốc độ tiêu chuẩn của SDH và SONET.
Mặc
dù SONET và SDH được đưa ra ban đầu cho truyền dẫn cáp quang, nhưng các
hệ thống SDH hiện tại vẫn tương thích cao với cả SDH và SONET.
Bảng 1: Phân cấp đồng bộ SDH/SONET
Tín hiệu SONET
|
Tốc độ bit (Mbit/s)
|
Tín hiệu SDH
|
Dung lượng
SONET
|
Dung lượng
SDH
|
|
|
STS-1, OC-1
|
51,840
|
STM-0
|
28DS1, hoặc 1 DS-3
|
21E1
|
|
STS-3, OC-3
|
155,520
|
STM-1
|
84DS-1, hoặc 3DS-3
|
63E1, hoặc 1E4
|
|
STS-12, OC-12
|
622,080
|
STM-4
|
336DS-1, hoặc12DS-3
|
252E1, hoặc 4E4
|
|
STS-48, OC-48
|
2488,320
|
STM-16
|
1344DS-1, hoặc 48DS-3
|
1008E1, hoặc 16E4
|
|
STS-192, OC-192
|
9953,280
|
STM-64
|
5376DS-1, hoặc 192DS-3
|
4032E1, hoặc 64E4
|
|
Bảng 2: Phân cấp không đồng bộ ANSI/ITU-T
ANSI
|
ITU-T
|
Tín hiệu
|
Tốc độ bit
|
Số kênh
|
Tín hiệu
|
Tốc độ bit
|
Số kênh
|
DS-0
|
64 Kbit/s
|
1 DS-0
|
64 Kbit/s
|
64 Kbit/s
|
1 64 Kbit/s
|
DS-1
|
1,544 Mbit/s
|
24 DS-0
|
E1
|
2,048 Mbit/s
|
1 E1
|
DS-2
|
6,312 Mbit/s
|
96 DS-0
|
E2
|
8,450 Mbit/s
|
4 E1
|
DS-3
|
44,7 Mbit/s
|
28 DS-1
|
E3
|
34 Mbit/s
|
16 E1
|
|
|
|
E4
|
144 Mbit/s
|
64 E1
|
2.3. Tương lai của SDH.
Hầu
hết tất cả các hệ thống truyền dẫn quang hiện nay trong mạng công cộng
đều dùng SONET và SDH. Chúng được mong đợi sẽ thống trị môi trường
truyền dẫn trong 10 năm, như công nghệ PDH đi trước đã làm được trong 20
năm (và hiện vẫn còn được sử dụng, dù rất ít). Trong khi tốc độ bit của
với mạng đường trục được kỳ vọng vượt qua 40Gbit/s thì các tốc độ nhỏ
hơn hoặc bằng 155Mbit/s đã được dùng rất rộng rãi trong các mạng truy
nhập.
2.4. Tại sao cần đồng bộ hóa
2.4.1. Đồng bộ và không đồng bộ.
Nói
chung, hệ thống truyền dẫn là không đồng bộ, do mỗi thiết bị trong mạng
đều sử dụng đồng hồ riêng của nó. Trong truyền dẫn số, xung đồng hồ là
một thông số rất quan trọng. Xung đồng hồ có nghĩa là sử dụng một chuỗi
các xung lặp đi lặp lại để giữ cho tốc độ bit của dữ liệu không đổi và
chỉ ra vị trí các bit 1 và 0 trong luồng dữ liệu. Ghép
kênh không đồng bộ trải qua nhiều giai đoạn. Các tín hiệu không đồng
bộ, ví dụ DS-1 ghép với nhau, cộng với các bit thêm vào, gọi là bit chèn
để bù cho sự sai khác của mỗi luồng riêng lẻ, và kết hợp với các bit
khác (bit khung) để tạo ra một luồng DS-2. Các bit chèn lại được sử dụng
theo cách đó để tạo ra các DS-3 và cao hơn nữa. Chúng ta không thể truy
nhập tới các luồng không đồng bộ tốc độ cao mà không sử dụng các bộ
tách kênh. Trong hệ thống đồng
bộ SONET/SDH, tần số trung bình của các đồng hồ trong hệ thống là giống
nhau (đồng bộ) hoặc gần giống nhau (cận đồng bộ). Mỗi đồng hồ có thể
truy ngược đến nguồn đồng hồ độ chính xác cao. Do đó, các luồng STS-1 dễ
dàng ghép với nhau thành các luồng tốc độ cao hơn mà không cần bit
chèn. Vì thế, ta có thể truy nhập ngay đến tốc độ STS-1 cũng như các tốc
độ cao hơn STS-N.
2.4.2. Phân cấp đồng bộ hóa.
Các
tổng đài số thường được dùng trong mạng số phân cấp đồng bộ hóa. Mạng
được tổ chức theo quan hệ chủ-tớ (master-slave) với đồng hồ của các node
cao hơn cung cấp tín hiệu đồng hồ cho các node thấp hơn.Tất cả các node
có thể truy ngược đến nguồn đồng hồ chuẩn. Nguồn đồng hồ chuẩn PRC có
độ chính xác là 1x10-11 theo khuyến nghị G.811 của ITU-T. Các
nguồn đồng hồ có độ chính xác thấp hơn là SSU (nguồn đồng hồ phụ) và
SEC (thiết bị cấp xung đồng bộ) theo khuyến nghị của ITU-T.
Hình 1. Các cấp đồng hồ đồng bộ trong hệ thống SDH
3. Nguyên tắc ghép kênh và cấu trúc khung
3.1. Nguyên tắc ghép
Hệ
thống số đồng bộ được hình thành từ các hệ thống cận đồng bộ khác nhau,
các hệ thống cận đồng bộ này có thể thuộc hệ Châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Đầu
vào của các hệ thống đồng bộ cơ sở là các luồng cận đồng bộ có tốc độ
bít khác nhau, được ghép lại thành nhiều bước, mỗi bước lại được đưa vào
các bit điều khiển, quản lý và phối hợp tốc độ. Khi đó, đầu ra được một
luồng đồng bộ cơ sở. Các luồng đồng bộ cơ sở được nâng lên N lần thành
các luồng đồng bộ cấp N. Cấu trúc bộ ghép SDH như hình 2.
Hình 2. Cấu trúc bộ ghép SDH G.709 ITU-T
Các chữ số trong hình này liên quan đến các tốc độ truyền dẫn cận đồng bộ như sau:
11
|
Tương ứng với
|
1554 Kbit/s
|
12
|
Tương ứng với
|
2048 Kbit/s
|
21
|
Tương ứng với
|
6312 Kbit/s
|
22
|
Tương ứng với
|
8448 Kbit/s
|
31
|
Tương ứng với
|
34368 Kbit/s
|
32
|
Tương ứng với
|
44736 Kbit/s
|
4
|
Tương ứng với
|
139264 Kbit/s
|
Chữ
số đầu tiên đại diện cho mức phân cấp truyền dẫn như quy định trong
G702-"Tốc độ bit của các cấp truyền dẫn số", và chữ số thứ hai đặc trưng
cho tốc độ thấp hơn (1) và cao hơn (2). Còn chữ số 4 là mức thứ 4, bằng
140 Mbit/s có trong tiêu chuẩn Châu Âu và Bắc Mỹ. Các khối có ký hiệu và chức năng sau đây:
- C-n:
(n = 1-->4) là các contener: Phần tử này có kích thước đủ để chứa
các byte tải trọng thuộc một trong các luồng cận đồng bộ.
- VC-n: là các contener ảo:
+
Contener ảo cơ sở (n = 1,2): gồm một C-n (n = 1,2) đơn cộng thêm các
byte mang thông tin điều khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n này và gọi
là POH.
+
Contener ảo bậc cao hơn VC-n (n = 3,4): gồm một C-n (n = 3,4) đơn và
tập hợp các nhóm khối nhánh (TUG-2S) hoặc một tập của TU-3S cùng với các
byte mang thông tin điều khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n và được
gọi là POH.
Con
trỏ được sử dụng để tìm các phần khác nhau của AU và TU gọi là
container ảo VC. Con trỏ AU xác định ở VC bậc cao hơn và con trỏ TU xác
định ở VC bậc thấp hơn. Ví dụ AU-3 gồm VC-3 cộng với một con trỏ, TU-2
gồm VC-2 cộng với một con trỏ.
Một
VC là một thực thể tải chạy trên mạng được tạo ra và hủy đi ở điểm kết
cuối dịch vụ hoặc ở gần điểm đó. Các tín hiệu lưu lượng PDH được ánh xạ
tới các container với kích thước phù hợp với yêu cầu băng thông, sử dụng
các bit đơn để bám tốc độ đồng hồ khi cần thiết. Các POH được thêm vào
sau đó cho mục đích quản lý, tạo một VC. Phần mào đầu này được bỏ đi sau
khi VC bị hủy và tín hiệu gốc ban đầu được tái tạo lại. Mỗi
tín hiệu PDH được ánh xạ vơi VC của nó, và các VC với cùng kích thước
không đáng kể được ghép lại bằng cách chèn byte tạo thành tải SDH.
- TU-n
(n = 1,2,3) là khối nhánh: gồm một VC cộng thêm một con trỏ khối nhánh.
Con trỏ khối nhánh chỉ thị sự đồng bộ pha của VC-n đối với POH của VC
mức cao hơn tiếp theo. Con trỏ khối nhánh có vị trí cố định so với POH
mức cao hơn.
- AU-3S
(S = 1 hoặc 2) và AU-N (N=4): gồm một VC bậc cao cộng thêm con trỏ khối
quản lý. Con trỏ khối quản lý có vị trí cố định trong khung STM-1 và
thể hiện quan hệ về pha của VC bậc cao hơn.
3.2. Cấu trúc khung STM-1
Khung STM-1 bao gồm 2430 bytes và thường được chia làm hai vùng, tương ứng với 9 hàng x 270 cột. Độ dài khung là 125 ms, tương ứng với tần số của khung là 8000 Hz. Tốc độ truyền dẫn của một byte trong khung là 64 Kbit/s. Khung STM-1 gồm 3 khối:
- Khối trọng tải Payload
- Khối con trỏ AU
- Khối SOH
Các
byte trong khung STM-1 được truyền từng hàng một và truyền từ trái sang
phải, bắt đầu từ hàng thứ nhất và cột thứ nhất. Như vậy, sau 9 byte SOH
(trừ hàng 4 là 9 byte AU) là 261 byte tải trọng được truyền xen kẽ.
+ Phần
điều khiển SOH: gồm có 8x9 byte, gồm các byte cần thiết cho dịch vụ như
từ mã đồng bộ khung, các byte bổ sung để giám sát, điều khiển và quản
lý.
+ Phần
trọng tải : các tín hiệu phân nhánh, các tín hiệu POH trong khuyến nghị
G.703 của CCITT từ 2 Mbit/s đến 140 Mbit/s được truyền tải trong cùng
tải trọng gồm có 9x261 byte.
+ Phần
con trỏ: Quan hệ thời gian giữa trọng tải và khung STM-1 được ghi lại
nhờ con trỏ, ngoài ra nó còn định vị các tín hiệu phân nhánh ở trong
khối tải trọng. Do đó, sau khi diễn giải con trỏ một cách thích hợp thì
có khả năng truy nhập tới từng kênh của người sử dụng độc lập ở bất kỳ
thời điểm nào, mà không cần tách luồng STM-1. Con trỏ ở hàng thứ tư, cột
từ 1 --> 9 gọi là con trỏ vùng A, còn con trỏ ở hàng 1-->3 và cột
11-->14 gọi là con trỏ vùng B. Khung STM-1 có độ dài 125ms, có tần số là 8000 Hz, như vậy được truyền 8000 lần/s. Do đó, tốc độ bit của tín hiệu STM-1 là : 8000 x 9 x 270 x 8 = 155520 kbit/s
Hình 3. Cấu trúc khung STM-1
Các
mức cao hơn STM-N của phân cấp đồng bộ được hình thành bởi cách chèn
byte vào phần tải của N tín hiệu STM-1, thêm các mào đầu gấp N lần mào
đầu của STM-1 và lấp đầy với dữ liệu quản lý và giá trị con trỏ phù hợp.
Hình 4. Cấu trúc khung STM-4
4. Các cơ chế bảo vệ
Có hai cơ chế bảo vệ trong mạng SDH: bảo vệ tuyến tính và bảo vệ mạch vòng.
4.1. Bảo vệ tuyến tính
Đây
là hình thức dự phòng đơn giản nhất, còn gọi là bảo vệ 1+1. ở đây, mỗi
đường làm việc được bảo vệ bởi một đường bảo vệ. Việc chuyển sang đường
bảo vệ xảy ra khi xác định được lỗi như là mất tín hiệu LOS. Cấu trúc
1+1 là dự phòng 100% khi mỗi đường làm việc có một đường bảo vệ. Nhưng
do vấn đề kinh tế, nên người ta thường sử dụng cơ cấu 1:N, nhất là những
đường truyền có khoảng cách xa. Theo cách này, vài đường làm việc được
bảo vệ bằng một đường dự phòng. Các đường dự phòng có thẻ sử dụng cho
các lưu lượng có độ ưu tiên thấp và có thể bị ngắt đi khi đướngự phòng
thay thế cho các đường làm việc bị lỗi. Cơ cấu bảo vệ 1+1 và 1:N được
tiêu chuẩn hóa trong khuyến nghị G.783 của ITU-T.
Hình 5. Sơ đồ bảo vệ tuyến tính
4.2. Bảo vệ mạch vòng
Bảo
vệ mạch vòng có nhiều ưu điểm hơn so với bảo vệ tuyến tính. Một mạch
vòng bảo vệ là cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất khi có một số phần tử
mạng liên kết với nhau. Có
nhiều cơ cấu bảo vệ được dùng cho loại mạng này, song chỉ có một số cơ
cấu được tiêu chuẩn hóa theo khuyến nghị G.841 ITU-T. Có 2 loại cơ cấu
mạch vòng là vòng đơn hướng và vòng hai hướng.
4.2.1. Mạch vòng đơn hướng
Hình 6. Mạch vòng bảo vệ đơn hướng
Trên hình thể hiện cách thức cơ bản của mạch vòng bảo vệ đơn hướng.
Giả
sử có sự gián đoạn thông tin giữa 2 phần tử mạng A và B, hướng Y không
bị ảnh hưởng bởi sự cố này. Tất nhiên, một đường thứ hai được thiết lập
cho hướng X. Do đó, kết nối này được chuyển sang đường thứ hai trong
phần tử mạng A và B. Còn hai phần tẻ khác, C và D được chuyển qua đường
dự phòng. Thủ tục này gọi là chuyển đường thẳng. Một
cách khác đơn giản hơn được sử dụng là chuyển vòng. Lưu lượng được
truyền trên cả hai đường làm việc và đường bảo vệ. nếu có sự cố, phía
thu (trường hợp này là A) chuyển sang đường bảo vệ và ngay lập tức duy
trì kết nối.
4.2.2. Mạch vòng hai hướng
Trong
cấu trúc mạng này, kết nối giữa hai phần tử mạng là hai hướng. Toàn bộ
dung lượng mạng được chia thành nhiều đường, mỗi đường làm việc là hai
hướng. Nếu có sự cố giữa hai phần tử mạng cạnh nhau A và B, B sẽ chuyển
sang đường bảo vệ. Có thể mang
lại hiệu quả bảo vệ cao hơn khi dùng mạch vòng bảo vệ hai hướng với 4
sợi cáp, mỗi đôi cáp chạy cả đường làm việc và đường bảo vệ. Kết quả, ta
có cấu trúc bảo vệ 1:1, nghĩa là dự phòng 100%.
Hình 7. Mạch vòng bảo vệ hai hướng
5. Các phần tử của mạng đồng bộ
Hình
vẽ thể hiện cấu trúc của một vòng SDH với nhiều nhánh. Đặc trưng của
SDh là có nhiều ứng dụng khác nhau được truyền trên mạng. Mạng đồng bộ
còn có khả năng truyền các tín hiệu cận đồng bộ, cũng như khả năng điều
khiển các dịch vụ như ATM. Tất cả điều đó yêu cầu mạng phải có nhiều
phần tử khác nhau. Về cơ bản, mạng có 4 phần tử sau:
5.1. Bộ tái tạo tín hiệu
Như
tên gọi của nó, phần tử này có nhiệm vụ tái tạo lại xung đồng hồ và
biên độ của tín hiệu đầu vào đã bị suy hao và méo dạng do tán sắc. Các
thông tin nhận được bằng cách trích ra nhiều kênh 64 kbit/s trong phần
mào đầu RSOH.
Hình 8. Sơ đồ mạng đồng bộ
5.2. Đầu cuối ghép kênh TM
Được sử dụng để kết hợp các luồng tín hiệu cận đồng bộ và đồng bộ đầu vào thành các luồng STM-N có tốc độ cao hơn.
5.3. Bộ xen/rẽ kênh ADM
Các
tín hiệu cận đồng bộ và các ín hiệu đồng bộ tốc độ thấp có thể được lấy
ra từ các luồng đồng bộ tốc độ cao hơn, hoặc được chèn vào đó, sử dụng
các bộ ADM. Đặc trưng này làm cho ADM rất hữu ích trong các cấu trúc
mạch vòng, tạo các đường bảo vệ trong vòng trong trường hợp xảy ra sự
cố. Tại một nút ADM, chỉ những
tín hiệu nào cấn thết để truy nhập mới được chèn vào / hay rẽ xuống.
Phần lưu lượng còn lại tiếp tục được chuyển đi trong mạng mà không cần
một thiết bị đặc biẹt nào khác.
5.4. Bộ đấu chéo số DXC
Thiết
bị này có chức năng ứng dụng rất rộng. Nó cho phép ánh xạ các luồng
nhánh PDH vào các VC cũng như chuyển các giá trị container thành VC-4.
Hình 9. Thiết bị đấu chéo số
5.4.1. Quản lý các phần tử mạng
Bộ
phận quản lý mạng viễn thông TNM cũng được xem như một phần tử trong
mạng đồng bộ. Tất cả các phần tử được đề cập trên đây đều được quản lý
bằng phần mềm. Nghĩa là chúng có thể được giám sát và điều khiển từ xa,
một trong những đặc tính quan trọng nhất của mạng SDH. Chức năng của TNM
được tóm tắt là :"Vận hành, quản lý, bảo dưỡng và giám sát-OAM&P".
Một số lỗi thường gặp trong quản lý, vận hành mạng truyền dẫn.
STT
|
Các lỗi
|
Mô tả
|
1
|
LOS (Loss Of Signal)
|
LOS xảy ra khi tín hiệu đồng bộ giảm xuống dưới ngưỡng có BER =1x10-3.
Nó cũng có thể đo đứt cáp, suy giảm mạnh tín hiệu hoặc lỗi thiết bị.
Trạng thái LOS được xóa khi 2 khung liên tiếp nhận được không thấy dấu
hiệu của LOS mới.
|
2
|
OOF (Out of Frame alignment)
|
OOF xảy ra 4 hoặc 5 khung SDH liên tiếp nhận được bị lỗi, mẫu khung không hợp lệ. Thời gian lớn nhất để xác định OOF là 625ms. OOF xóa khi nhận được 2 khung liêm tiếp có mẫu khung hợp lệ.
|
3
|
LOF (Loss of frame alignment)
|
LOF
xẩy ra khi OOF tồn tại trong khoảng thời gian xác định bằng ms. LOF xóa
khi một điều kiện trong khung tồn tạiliên tiếp trong thời gian xác định
bằng ms.
|
4
|
LOP (Loss of pointer)
|
LOP
xảy ra khi nhận được N con trỏ liên tiếp không hợp lệ, hoặc nhận được N
cờ dữ liệu mới (NDF), ở đây, N=8,9 và 10. LOP xóa khi có 3 con trỏ hợp
lệ bằng nhau, hoặc nhận được 3 chỉ thị AIS liên tiếp.
|
5
|
AIS (Alarm Indicator Signal)
|
AIS
là trạng thái tất cả các bit =1. Nó được tạo ra để thay thế cho tín
hiệu bình thường khi nó bao gồm một điều kiện lỗi để ngăn các lỗi hoặc
cảnh báo tăng lên.
|
6
|
RDI (Remote defect indication)
|
Đây là tín hiệu trả về của thiếp bị truyền dẫn khi có các lỗi LOS, LOF hoặc AIS.
|
7
|
RFI (Remote failure indication)
|
Một
lỗi xảy ra rất dài khi vượt qua thời gian lớn nhất cho phép của cơ cấu
bảo vệ hệ thống truyền dẫn. Khi tình huống nằy xảy ra, một bản tin RFI
sẽ được gửi đến đầu xa và sẽ khởi tạo chuyển mạch bảo vệ nếu chức năng
này đã được kích hoạt.
|
KẾT LUẬN
SDH mang lại nhều lợi ích to lớn cho nhà cung cấp mạng:
· Tốc độ truyền dẫn cao: Tốc độ truyền dẫn có thể đạt tới 10Gbit/s, do đó phù hợp với các mạng đường trục, mạng lõi.
· Chức
năng xen/rẽ kênh đơn giản: so với PDH, SDH dễ dàng chèn các luồng tốc
độ thấp vào luồng tốc độ cao, và cũng như lấy các luồng tốc đọ thấp hơn
ra khỏi các luồng tốc đọ cao hơn.
· Khả
năng đáp ứng cao và dung lượng phù hợp: với SDH, nhà cung cấp dễ dàng
và nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Các phần tử mạng được
quản lý và điều khiẻn từ trung tâm, sử dụng hệ thống TNM.
· Độ
tin cậy cao: mạng SDH hiện đại có nhiều cơ chế bảo vệ và dự phòng khác
nhau. Lỗi một phần tử trong mạng không thể gây lỗi toàn bộ hệ thống.
· Làm
nền tảng của nhiều dịch vụ tương lai: Ngay bây giờ, mạng SDH đã là nền
tảng cho các dịch vụ POTS, ISDN, di động...Nó cũng dề dàng đáp ứng được
các dịch vụ video theo yêu cầu, truyền hình số quảng bá...
· Kết
nối dễ dàng với các hệ thống khác: Giao diện SDH được tiêu chuẩn hóa
toàn cầu, có thể kết hợp nhiều phần tử khác nhau trong cùng một mạng và
tương tác với các mạng khác dễ dàng.
Sắp
tới, công nghệ ghép kênh phân chia theo bước sóng DWDM sẵn sàng được sử
dụng thay thế cho SDH. Công nghệ này có thể truyền nhiều bước sóng
trong cùng sợi quang đơn mode. Hiện tại có thể truyền 16 bước sóng, từ
1520nm đến 1580nm, do đó tốc độ truyền dẫn có thể đạt tới 40Gbit/s và
cao hơn nữa trên một sợi quang. Do đó, có thể nói rằng DWDM là công nghệ
truyền dẫn quang của tương lai.