Tìm kiếm nhanh và chính xác hơn với google tùy chỉnh

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

OFDM (orthogonal Frequency Division Multiplexing)

Trước hết xem qua về kĩ thuật  đơn sóng mang
Kỹ thuật đơn sóng mang
Các kỹ thuật trải phổ được sử dụng trong các hệ thống thông tin di động thế hệ ba có khả năng chống lại pha đinh và nhiễu, song tồn tại những yêu cầu không thực hiện được chẳng hạn: nếu người dùng cần có tốc độ 20 Mbps ở giao diện vô tuyến và hệ số trải phổ là 128 (giá trị điển hình hiện nay), dẫn đến phải xử lý tốc độ 2,56 Gbps theo thời gian thực vì thế cần có độ rộng băng tần lớn không thực tế. Mặt khác, thấy rõ
· Do tài nguyên phổ tần hạn hẹp, vì vậy cần phải sử dụng hiệu quả.
· Do những khó khăn liên quan đến hiệu ứng gần xa và có sự tiêu thụ công suất lớn.
Ngoài ra, các kỹ thuật đơn sóng mang đối phó kém hiệu quả đối với pha đinh và truyền lan đa đường đặc biệt trong trường hợp tốc độ bit rất cao. Ở các phương pháp điều chế truyền thống M-QAM, M-PSK…, khi tốc độ dữ liệu truyền cao thì kéo theo độ rộng ký hiệu sẽ giảm, đến một giá trị mà độ rộng ký hiệu < trải trễ cực đại của kênh, khi đó kênh sẽ là kênh lựa chọn tần số và gây ISI cho tín hiệu thu. Đây là một nhược điểm chính khiến các hệ thống sử dụng các phương pháp điều chế truyền thống không thể truyền dữ liệu với tốc độ cao, hoặc giá thành rất cao đối với những dịch vụ yêu cầu tốc độ dữ liệu cao
Kỹ thuật đa sóng mang trực giao OFDM
OFDM là một công nghệ cho phép tăng độ rộng ký hiệu truyền dẫn do đó dung sai đa đường lớn hơn rất nhiều so với các kỹ thuật đã sử dụng trước đây, cho phép khắc phục những nhược điểm căn bản của kỹ thuật đơn sóng mang.
Lịch sử phát triển
OFDM là một phương pháp truyền khá phức tạp trên kênh vật lý, nguyên lý cơ bản của phương pháp là sử dụng kỹ thuật đa sóng mang để truyền một lượng lớn ký tự tại cùng một thời điểm. Sử dụng kỹ thuật OFDM có rất nhiều ưu điểm, đó là hiệu quả sử dụng phổ rất cao, khả năng chống giao thoa đa đường tốt (đặc biệt trong hệ thống không dây) và rất dễ lọc bỏ nhiễu (nếu một kênh tần số bị nhiễu, các tần số lân cận sẽ bị bỏ qua, không sử dụng). Ngoài ra, tốc độ truyền Uplink và Downlink có thể thay đổi dễ dàng bằng việc thay đổi số lượng sóng mang sử dụng. Một ưu điểm quan trọng của hệ thống sử dụng đa sóng mang là các sóng mang riêng có thể hoạt động ở tốc độ bit nhỏ dẫn đến chu kỳ của ký tự tương ứng sẽ được kéo dài . Ví dụ, nếu muốn truyền với tốc độ là hàng triệu bit trên giây bằng một kênh đơn, chu kỳ của một bit phải nhỏ hơn 1 micro giây. Điều này sẽ gây ra khó khăn cho việc đồng bộ và loại bỏ giao thoa đa đường. Nếu cùng lượng thông tin trên được trải ra cho N sóng mang, chu kỳ của mỗi bit sẽ được tăng lên N lần, lúc đó việc xử lý vấn đề định thời, đa đường sẽ đơn giản hơn.
Kỹ thuật OFDM do R.W Chang phát minh năm 1966 ở Mỹ. Trong những thập kỹ vừa qua nhiều công trình khoa học về kỹ thuật này đã được thực hiện ở khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt là công trình khoa học của Weistein và Ebert đã chứng minh rằng phép điều chế OFDM có thể thực hiện được thông qua các phép biến đổi IDFT và phép giải điều chế OFDM có thể thực hiện được bằng phép biến đổi DFT. Vào đầu những năm 80, đội ngũ kỹ sư phòng thí nghiệm CCETT (Centre Commun d'Etudes en Télédiffusion et Télécommunication) dựa vào các lý thuyết Wienstein và Ebert đã đề xuất phương pháp điều chế số rất hiệu quả trong lĩnh vực phát thanh truyền hình số, đó là OFDM (Orthogonal Frequency Divionsion Multiplex). Phát minh này cùng với sự phát triển của kỹ thuật số làm cho kỹ thuật điều chế OFDM được sử dụng ngày càng trở nên rộng rãi. Thay vì sử dụng IDFT và DFT người ta có thể sử dụng phép biến đổi nhanh IFFT cho bộ điều chế OFDM, sử dụng FFT cho bộ giải điều chế OFDM.
Ngày nay kỹ thuật OFDM còn kết hợp với các phương pháp mã kênh sử dụng trong thông tin vô tuyến. Các hệ thống này còn được gọi với khái niệm là COFDM (Coded OFDM). Trong các hệ thống này tín hiệu trước khi được điều chế OFDM sẽ được mã kênh với các loại mã khác nhau với mục đích chống lại các lỗi đường truyền. Do chất lượng kênh (độ fading và tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm) của mỗi sóng mang phụ là khác nhau, người ta thực hiện điều chế tín hiệu trên mỗi sóng mang với các mức điều chế khác nhau. Hệ thống này mở ra khái niệm về hệ thống truyền dẫn sử dụng kỹ thuật OFDM với bộ điều chế tín hiệu thích ứng (adaptive modulation technique). Kỹ thuật này hiện đã được sử dụng trong hệ thống thông tin máy tính băng rộng HiperLAN/2 ở Châu Âu. Trên thế giới hệ thống này được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn IEEE.802.11a.
Các ưu và nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm kể trên của kỹ thuật OFDM, các hệ thống sử dụng kỹ thuật này còn có nhiều ưu điểm cơ bản khác liệt kê sau đây:
* Hệ thống OFDM có thể loại bỏ hoàn toàn nhiễu liên ký tự (Intersymbol Interference- ISI) nếu độ dài chuỗi bảo vệ (Guard interval length) lớn hơn trễ truyền dẫn lớn nhất của kênh.
* Phù hợp cho việc thiết kế hệ thống truyền dẫn băng rộng ( hệ thống có tốc độ truyền dẫn cao), do ảnh hưởng của sự phân tập về tần số (frequency selectivity) đối với chất lượng hệ thống được giảm nhiều so với hệ thống truyền dẫn đơn sóng mang.
* Hệ thống có cấu trúc bộ thu đơn giản.
Bên cạnh đó, kỹ thuật OFDM cũng có một vài nhược điểm cơ bản đó là:
* Một trong những vấn đề của OFDM là nó có công suất đỉnh cao hơn so với công suất trung bình. Khi tín hiệu OFDM được điều chế RF, sự thay đổi này diễn ra tương tự đối với biên độ sóng mang, sau đó tín hiệu được truyền đi trên môi trường tuyến tính, tuy nhiên độ tuyến tính rất khó giữ khi điều chế ở công suất cao, do vậy méo dạng tín hiệu kiểu này hay diễn ra trên bộ khuyếch đại công suất của bộ phát. Bộ thu thiết kế không tốt có thể gây méo dạng trầm trọng hơn. Méo dạng gây ra hầu hết các vấn đề như trải phổ, gây ra nhiễu giữa các hệ thống khi truyền trên các tần số RF kề nhau.
* Việc sử dụng chuỗi bảo vệ có thể tránh được nhiễu ISI nhưng lại làm giảm đi một phần hiệu suất đường truyền, do bản thân chuỗi bảo vệ không mang thông tin có ích.
* Do yêu cầu về điều kiện trực giao giữa các sóng mang phụ, hệ thống OFDM rất nhạy cảm với hiệu ứng Doppler cũng như là sự dịch tần (frequency offset) và dịch thời gian (time offset) do sai số đồng bộ.
- Ảnh hưởng của sự sai lệch thời gian đồng bộ: OFDM có khả năng chịu đựng tốt các sai số về thời gian nhờ các khoảng bảo vệ giữa các symbol. Với một kênh truyền không có delay do hiệu ứng đa đường, time offet có thể bằng khoảng bảovệ mà không mất đi tính trực giao, chỉ gây ra sự xoay pha của các sóng mang con mà thôi. Nếu lỗi time offset lớn hơn khoảng bảo vệ thì hoạt động của hệ thống suy giảm nhanh chóng. Nguyên nhân là do các symbol trước khi đến bộ FFT sẽ bao gồm một phần nội dung của các symbol khác, dẫn đến ISI (Inter-Symbol Interference).
- Ảnh hưởng của sự sai lệch đồng bộ tần số: Một trong những vấn đề lớn của OFDM là nó dễ bị ảnh hưởng bởi offset về tần số. Giải điều chế tín hiệu OFDM có thể gây ra sai về tốc độ bit. Điều này làm cho tính trực giao giữa các subcarrier bị mất đi (kết quả của ICI và sự xoay pha không sửa chữa được ở bộ
thu).
Sai số về tần số diễn ra chủ yếu theo 2 nguồn chính: lỗi của bộ dao động và hiệu ứng Doppler. Bất kỳ một sự bất đồng bộ nào giữa bộ phát và bộ thu đều có thể gây ra offset về tần số. Offset này có thể được bù bằng cách dùng bộ bám tần số, tuy nhiên chỉ khắc phục mà thôi, hoạt động của hệ thống vẫn bị ảnh hưởng.
Sự di chuyển tương đối giữa bộ thu và bộ phát gây ra dịch chuyển Doppler của tín hiệu. Điều này có thể hiểu là sự offset tần số trong môi trường truyền tự do, nó có thể khắc phục bằng một bộ bù tại bộ dao động. Một vần đề quan trọng của hiệu ứng Doppler là trải Doppler, nó gây nên bởi sự di chuyển giữa bộ phát và bộ thu trong môi trường đa đường. Trải Doppler gây nên bởi vận tốc tương đối giữa các thành phần tín
hiệu phản xạ lại, tạo ra quá trình "điều chế tần số" cho tín hiệu. Quá trình này diễn ra ngẫu nhiên trên các subcarrier do trong môi trường bình thường, một lượng lớn phản xạ đa đường xảy ra. Trải Doppler khó được bù và làm suy giảm chất lượng tín hiệu.
Ngày nay OFDM đã được tiêu chuẩn hóa là phương pháp điều chế cho các hệ thống phát thanh số DAB và DRM, truyền hình mặt đất DVB-T, mạng máy tính không dâytốc độ cao HiperLAN/2...
Sự ứng dụng của kỹ thuật OFDM ở Việt Nam
Có thể nói mạng internet băng rộng ADSL (Asymmetric Digital Subscriber Line) rất quen thuộc ở Việt Nam, nhưng ít người biết rằng sự nâng cao tốc độ đường truyền trong hệ thống ADSL chính là nhờ công nghệ OFDM. Nhờ kỹ thuật điều chế đa sóng mang và sự cho phép chồng phổ giữa các sóng mang mà tốc độ truyền dẫn trong hệ thống ADSL tăng lên một cách đáng kể so với các mạng cung cấp dịch vụ internet
thông thường.
Bên cạnh mạng cung cấp dịch vụ ADSL hiện đang được sử dụng rất rộng rãi ở Việt Nam hiện nay, các hệ thống thông tin vô tuyến như mạng truyền hình số mặt đất DVBT cũng đang được khai thác sử dụng. Các hệ thống phát thanh số như DAB và DRM chắc chắn sẽ được khai thác sử dụng trong một tương lai không xa. Các mạng về thông tin máy tính không dây như HiperLAN/2, IEEE 802.11a, g cũng sẽ được khai thác một
cách rộng rãi ở Việt Nam.
Các hướng phát triển trong tương lai
Kỹ thuật OFDM hiện được đề cử làm phương pháp điều chế sử dụng trong mạng thông tin thành thị băng rộng Wimax theo tiêu chuẩn IEEE 802.16a và hệ thống thông tin di động thế hệ thứ tư. Trong hệ thống thông tin di động thế hệ thứ tư, kỹ thuật OFDM còn có thể kết hợp với các kỹ thuật khác như kỹ thuật đa anten phát và thu (MIMO technique) nhằm nâng cao dung lượng kênh vô tuyến và kết hợp với công nghệ CDMA nhằm phục vụ dịch vụ đa truy cập của mạng. Một vài hướng nghiên cứu với mục đích thay đổi phép biến đổi FFT trong bộ điều chế OFDM bằng phép biến đổi Wavelet nhằm cải thiện sự nhạy cảm của hệ thống đối với hiệu ứng dịch tần do mất đồng bộ gây ra và giảm độ dài tối thiểu của chuỗi bảo vệ trong hệ thống OFDM. Tuy nhiên khả năng ứng dụng của công nghệ này cần phải được kiểm chứng cụ thể hơn nữa trong tương lai.
Các cột mốc và ứng dụng quan trọng của OFDM
1957: Kineplex, multi-carrier HF modem
1966: Chang, Bell Labs: thuyết trình và đưa ra mô hình OFDM
1971: Weinstein & Ebert đề nghị sử dụng FFT và khoảng bảo vệ
1985: Cimini mô tả ứng dụng của OFDM trong thông tin di động
1987: Alard & Lasalle: áp dụng OFDM cho digital broadcasting
1995: Chuẩn ETSI DAB: chuẩn OFDM cơ bản đầu tiên
1997: Chuẩn ETSI DVB-T
1998: Dự án Magic WAND trình diễn OFDM modems cho mạng WLAN
1999: Chuẩn IEEE 802.11a và ETSI BRAN HiperLAN/2 cho Wireless LAN
2000: Được dùng trong truy cập vô tuyến cố định (V-OFDM, Flash-OFDM)
2001: OFDM được đề cử cho những chuẩn mới 802.11 và 802.16
2002: Được dùng trong chuẩn IEEE 802.11g chuẩn cho WLAN
2003: OFDM được đề cử cho UWB (802.15.3a)
2004: Được dùng trong chuẩn IEEE 802.16-2004 chuẩn cho mạng WMAN
(WiMAX)
Được dùng trong chuẩn Chuẩn ETSI DVB-H
Được đề cử cho chuẩn IEEE 802.15.3a, mạng WPAN (MB-OFDM)
Được đề cử cho chuẩn IEEE 802.11n, thế hệ kế tiếp của mạng WLAN
2005: Được đề cử cho chuẩn di động tế bào 3.75G (3GPP & 3GPP2)
Được đề cử cho chuẩn 4G (CJK)

So sánh một số kĩ thuật OFDM
Sự khác nhau giữa OFDM và OFDMA ở hình dưới đây

Kỹ thuật đa truy nhập phân chia theo tần số trực giao OFDMA chia băng tần thành các băng con, mỗi băng con là một sóng mang con. Khác với OFDM, trong OFDMA mỗi trạm thuê bao không sử dụng toàn bộ không gian sóng mang con mà không gian sóng mang con được chia cho nhiều thuê bao cùng sử dụng một lúc. Mỗi trạm thuê bao sẽ được cấp một hoặc vài sóng mang con gọi là kênh con hoá.
Khi các trạm thuê bao không sử dụng hết không gian sóng mang con thì tất cả công suất phát của trạm gốc sẽ chỉ tập trung vào số sóng mang con được sử dụng. Trong quá trình truyền dẫn mỗi trạm thuê bao được cấp phát một kênh con riêng.
OFDMA là  kỹ thuật đa truy cập vào kênh truyền OFDM ,một dạng cải tiến của OFDM

Sự khác nhau giữa OFDMA và SOFDMA:
Thật ra thì SOFDMA cũng là OFDMA chỉ khác nhau đó là trong SOFDMA thì kích thướng FFT có thể thay đổi tuỳ theo độ rộng băng tần nhưng khoảng cách giữa các sóng mang con là không đổi 10.94KHz. Còn trong OFDMA có kích thước FFT cố định là 2048.
Như vậy trong SOFDMA, độ rộng phổ của các băng con là như nhau trong các hệ thống khác nhau, giúp quá trình chuyển giao thuận lợi hơn. Ngoài ra việc tương thích giữa các hệ thống sẽ làm giảm chi phí thiết kế, xây dựng mạng.

Bài viết trên cũng không phải là dài lắm nhưng mình đọc thì cũng chỉ hiêu hiểu thôi, để giải thích ngắn gọn hơn nhé. Thực ra vấn đề này mình cũng không hiểu sâu, cái gì mình hiểu thì ghi vào đây thôi.
OFDM là một kỹ thuật điều chế đa sóng mang , nhưng không những không tốn phổ (khoảng cách giữa các sóng mang) mà còn tiết kiệm phổ, các bạn có thể xem trong hình dưới so sánh chiếm phổ của OFDM và FDM (thực ra FDM giữa 2 kênh cần phải tách ra 1 khoảng bảo vệ giữa 2 sóng mang nữa).

Ở FDM hay các loại đơn sóng mang thì mỗi kênh là 1 sóng mang còn OFDM thì mỗi kênh có thể có 1 hoặc nhiều sóng mang. Sóng mang của OFDM trực giao nên dù bị chồng lấn như thế nhưng ở các điểm lấy mẫu để thu tín hiệu (các chỗ nét thẳng ấy) thì lại không ảnh hưởng lẫn nhau (không bị ISI).
Hình này rõ ràng hơn về phổ của tín hiệu OFDM
Vì 1 kênh mang nhiều sóng mang nên mỗi sóng mang chỉ cần băng thông hẹp => fading chống dễ (đây cũng là ưu điểm của truyền dẫn đa sóng mang ở trên), chống được trải trễ.

Lúc đầu khi R.W Chang phát minh (xem ở trên) thì mỗi sóng mang cần một bộ phát và 1 bộ thu riêng nên phức tạp, sau này Weistein và Ebert đã chứng minh rằng phép điều chế OFDM có thể thực hiện được thông qua các phép biến đổi IDFT và phép giải điều chế OFDM có thể thực hiện được bằng phép biến đổi DFT không rõ là thực tế nó thế nào nhưng chỉ cần 1 bộ thu phát nên đơn giản và ứng dụng tốt hơn rất nhiều.

OFDM  tuy nhiều ưu điểm nhưng cũng không phải không có nhược điểm.
Khi truyền liên tiếp các symbol thì cũng cần khoảng thời gian phòng vệ GI (Guard Interval) vì các tín hiệu do truyền lan đa đường đến ở các thời điểm khác nhau và chồng chéo nhau, đây là hình về ISI giữa 2 symbol OFDM

Trong khoảng thời gian GI mà không truyền gì -> tín hiệu bị gián đoạn -> mở rộng phổ (cái này liên quan đến tính toán, biến đổi Fourier, không hiểu thì cứ thừa nhận vậy thôi) -> mất tính trực giao -> gây nhiễu nên người ta áp dụng 1 cái gọi là tiền tố vòng (Cyclic Prefix), lấy một mẩu dữ liệu của symbol sau cho vào khoảng phòng vệ để khỏi gián đoạn.

OFDM rất quan trọng việc đồng bộ vì sai tí là ISI nhiều ngay (mất tính trực giao), ngoài ra PAPR cũng lớn nên ở LTE (di động 3.9G) đường lên do thiết bị di động yếu, người ta ứng dụng OFDM không hiệu quả, nên chỉ đường xuống dùng OFDMA (đa truy nhập dựa trên cái OFDM này) thay vào đó người ta dùng sc-fdma (Single Carrier Frequency Division Multiple Access - đa truy nhập phân chia theo tần số đơn sóng mang)

Thứ Năm, 8 tháng 3, 2012

Cơ bản về địa chỉ IP

1. Địa chỉ IP (version 4):
Địa chỉ IP là một số nguyên 32 bit, thường được biểu diễn dưới dạng một dãy 4 số nguyên cách nhau bởi dấu chấm (dotted format). Một số nguyên trong địa chỉ IP là một byte, thường được gọi là một octet (8 bits).

Ví dụ về một địa chỉ IP điển hình là 123.255.0.15. Các thành phần 123, 255, 0 và 15 là các octet.

Một địa chỉ IP gồm có 3 phần. Phần đầu tiên là địa chỉ mạng (network address), phần thứ cuối cùng là địa chỉ máy (host address) và phần còn lại (nếu có) là địa chỉ mạng con (subnet address).

Địa chỉ mạng của một địa chỉ IP được tìm ra khi thực hiện phép toán logic AND giữa địa chỉ IP đấy và một giá trị gọi là mặt nạ mạng (network mask, tôi sẽ không dùng từ “mặt nạ mạng” trong tất cả các bài về sau mà chỉ dùng “network mask” cũng như sẽ không dịch từ “mask” thành “mặt nạ” nữa). Network mask cho biết bao nhiêu bit trong địa chỉ IP là địa chỉ mạng.

2. Phân lớp địa chỉ IP:

Địa chỉ IP được phân ra làm 5 lớp mạng (lớp A, B, C, D, và E). Trong đó bốn lớp đầu được sử dụng, lớp E được dành riêng cho nghiên cứu. Lớp D được dùng cho việc phát các thông tin broadcast/multicastt (broadcast/multicast IPs). Lớp A, B và C được dùng trong cuộc sống hàng ngày.

3. Cách phân biệt IP lớp A, B, C, và D:

Một địa chỉ IP với bit đầu tiên là 0 thuộc về lớp A, bit đầu tiên là 1 và bit thứ 2 là 0 thuộc lớp B, bit đầu là 1, bit 2 là 1, bit 3 là 0 thuộc lớp C, bit đầu là 1, bit 2 là 1, bit 3 là 1, bit 4 là 0 thuộc lớp D. Lớp E là các địa chỉ còn lại. Bảng sau tóm tắt ý tưởng này:

A 0xxxxxxxx . host . host . host (tức là 24 bit sau có thể dùng để đánh dấu địa chỉ máy), octet đầu tiên sẽ bắt đầu từ 00000001 đến 01111110 (1-126 hệ cơ số 10 vì địa chỉ toàn 0 để dùng cho việc khác, và địa chỉ 01111111... phục vụ cho việc test)
B 10xxxxxxx . network . host . host thì có 8 bit cho địa chỉ mạng (một cơ quan có nhiều mạng chẳng hạn) octet đầu tiên từ 128-191 (10000000 - 10111111)
C 110xxxxx . network . network . host , octet đầu từ 192-223
D 1110x…….xxx (không dùng)

Ví dụ địa chỉ 10.243.100.56 là một địa chỉ IP lớp A vì octet đầu được biểu diễn dưới dạng nhị phân thành 00001010. Bit đầu tiên là 0 nên địa chỉ đó thuộc về lớp A.

Mỗi lớp có 2 địa chỉ dành riêng là địa chỉ thấp nhất (phần địa chỉ máy toàn bit 0), và địa chỉ cao nhất của lớp đó (phần địa chỉ máy toàn bit 1). Như vậy, địa chỉ mạng có thể có trong một lớp sẽ phụ thuộc vào số bit trong network mask (bit mang giá trị 1). Nếu gọi số bit 1 trong network mask là x thì số địa chỉ mạng tối đa có thể có trong một lớp là 2^x

Tuy nhiên, vì mỗi lớp bị phụ thuộc vào vài bit đầu tiên quy định nên số địa chỉ mạng tối đa thật sự trong mỗi lớp sẽ là 2^x - 2^(số bit cố định của lớp tương ứng).

Như vậy lớp A có 126 địa chỉ, lớp B có tối đa 16382 địa chỉ, lớp C có 2097150 địa chỉ.

Phần còn lại ngoài địa chỉ mạng sẽ là địa chỉ máy. Tương tự cũng có 2 địa chỉ máy dành riêng (địa chỉ thấp nhất và địa chỉ cao nhất) trong mỗi địa chỉ mạng. Như vậy, số địa chỉ máy có thể có trong mỗi mạng sẽ là 2^(32 - x) - 2. Công thức tính đơn giản giống công thức tính số địa chỉ mạng. Chỉ khác một điều là ta dùng số bit 0 (32-x) thay vì dùng số bit 1 (x).

Như vậy, một địa chỉ mạng lớp C sẽ có 254 địa chỉ máy, tương tự cho địa chỉ mạng lớp B, và A.

Tổng số địa chỉ của một lớp mạng là tích của số địa chỉ mạng và số địa chỉ máy trong một mạng thuộc lớp đó.

4. Subnet:

Tuy nhiên, các nhà quản trị mạng thường phân chia mạng của họ ra thành nhiều mạng nhỏ hơn gọi là mạng con subnet. Tương tự với địa chỉ mạng, địa chỉ mạng con cũng được quy định bởi một mask, gọi là subnet mask. Subnet mask của một địa chỉ mạng có số bit 1 nhiều hơn hoặc bằng (trường hợp bằng có nghĩa là không có chia mạng ra thành subnet) số bit 1 trong network mask của địa chỉ đó. Ví dụ subnet mask của một mạng thuộc lớp B sẽ có dạng 255.255.xxx.xxx với xxx là số bất kỳ từ 0 đến 255.

Cách tính số địa chỉ mạng con của một địa chỉ mạng sẽ phụ thuộc vào bao nhiêu bit của network mask đã được dùng để làm subnet mask (tạm gọi là y). Hai công thức bên trên đều được sử dụng với việc thay biến x thành y. Đặc biệt cách tính số địa chỉ IP trong mỗi subnet sẽ dùng cả x và y theo công thức sau:

2^(32 - x - y) - 2

Ví dụ subnet mask của một mạng lớp A (network mask mặc định 255.0.0.0) là 255.192.0.0 thì y sẽ là 2 (vì 192 biểu diễn ở dạng nhị phân là 11000000, có nghĩa là đã có 2 bit đã được sử dụng để làm subnet mask). Subnet mask phải là một dãy liên tục các bit 1 ngay sau network mask. Điều này nói lên rằng subnet mask dành một số bit 0 trong network mask (phần dành cho địa chỉ máy). Cũng có 2 địa chỉ máy dành riêng trong mỗi subnet. Hai địa chỉ đó là subnet address (địa chỉ thấp nhất trong subnet) và broadcast address (địa chỉ cao nhất trong subnet). Địa chỉ thấp nhất trong subnet không nhất thiết có tất cả các bit là 0 như đối với địa chỉ thấp nhất trong một mạng, cũng như địa chỉ cao nhất không nhất thiết phải là toàn bit 1. Lưu ý là trong một vài tài liệu cũ nói rằng cũng có 2 subnet dành riêng trong mỗi mạng nhưng bây giờ điều đó không còn dùng nữa. Hai subnet đó vẫn được dùng, gọi là zero subnet (subnet thấp nhất) và broadcast subnet (subnet cao nhất).

Ngoài ra, mỗi lớp mạng còn có 1 địa chỉ mạng dành riêng (private network address). Lớp A có địa chỉ 10.0.0.0. Lớp B có địa chỉ 172.16.0.0. Lớp C có địa chỉ 192.168.0.0. Địa chỉ broadcast của lớp A còn được gọi là địa chỉ universal broadcast (toàn bit 1 hay 255.255.255.255).
5. Broadcast và multicast:

Các phần trên đề cập đến broadcast và multicast nhưng chưa giải thích. Địa chỉ broadcast là một địa chỉ mà khi thông tin gửi tới địa chỉ đó sẽ được gửi đến toàn bộ các máy trong mạng. Multicast cũng như broadcast nhưng chỉ có tác dụng trong một subnet.

Trên đây là các kiến thức cơ bản về việc đánh địa chỉ IP. Vài ví dụ dưới sẽ giúp làm sáng tỏ các kiến thức trên.

Ví dụ 1: Địa chỉ 192.168.0.1 thuộc lớp nào?

Có 2 cách trả lời câu hỏi này: Một là dựa vào việc phân tích octet đầu ra dạng nhị phân, căn cứ vào các bit đầu mà có thể trả lời. Cách thứ hai là vì địa chỉ này thuộc mạng riêng của lớp C nên có thể trả lời ngay.

Ví dụ 2: Chỉ rõ địa chỉ mạng của địa chỉ 192.168.0.5 với network mask mặc định.

Câu hỏi này buộc ta phải biết địa chỉ 192.168.0.5 thuộc lớp nào và biết network mask của lớp đó.

192.168.0.5 thuộc lớp C.

Lớp C có network mask là 255.255.255.0.

Thực hiện phép AND sẽ ra 192.168.0.0.

Câu trả lời là 192.168.0.0. Câu hỏi này cũng có thể trả lời nếu ta biết là địa chỉ 192.168.0.5 là một trong 3 địa chỉ riêng.

Ví dụ 3: Chỉ rõ phần địa chỉ mạng (bỏ phần địa chỉ máy) của địa chỉ 192.168.0.10 với network mask mặc định.

Như câu trên ta đã biết network mask của địa chỉ 192.168.0.10 là 255.255.255.0. Câu hỏi yêu cầu chỉ rõ PHẦN địa chỉ mạng, nên ta chỉ lấy các bit còn nằm trong network mask:

Địa chỉ đầu 11000000.10101000.00000000.00001010

Network mask 11111111.11111111.11111111.00000000

Lấy phần trong network mask 11000000.10101000.00000000

Câu trả lời sẽ là 192.168.0.

Ví dụ 4: Địa chỉ IP 129.56.7.8 có subnet mask là 255.255.128.0. Hỏi có bao nhiêu subnet, bao nhiêu địa chỉ IP trong mỗi subnet, bao nhiêu địa chỉ IP trong mạng đó?

Việc trả lời đòi hỏi chút tính toán. Sau khi nhận biết địa chỉ IP này là thuộc lớp B, network mask mặc định là 255.255.0.0 (x là 16), ta biết quản trị mạng đã lấy 1 bit để chia subnet. Như vậy, y là 1. Số subnet là 2^1 là 2. Số địa chỉ IP trong mỗi subnet là 2^(32-y-x) - 2 là 32766. Suy ra số địa chỉ IP trong mạng đó là 2 * 32766 là 65532.
6. Câu hỏi dành cho người đọc tự trả lời:

Một quản trị viên có một network address thuộc lớp C. Anh ta muốn chia địa chỉ này ra thành nhiều subnet nhỏ hơn. Anh ta muốn mỗi subnet có tối thiểu 10 máy và tối đa 30 máy, vậy anh ta nên dùng những subnet mask nào?

Trên đây là một vài thông tin cần thiết để hiểu cách đánh địa chỉ IP.

Nguồn google.com.vn có sửa đổi

Nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Service Provider - ISP)

Nhà cung cấp dịch vụ Internet (tiếng Anh: Internet Service Provider, viết tắt: ISP) chuyên cung cấp các giải pháp kết nối Internet cho các đơn vị tổ chức hay các cá nhân người dùng. Một số ISP ở Việt Nam là FPT, Viettel, VDC, Netnam,... Các ISP phải thuê đường và cổng của một IAP. Các ISP có quyền kinh doanh thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân.
Các loại ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ Internet. Điều khác nhau duy nhất giữa ISP và ISP riêng là không cung cấp dịch vụ Internet với mục đích kinh doanh. Người dùng chỉ cần thoả thuận với một ISP hay ISP riêng nào đó về các dịch vụ được sử dụng và thủ tục thanh toán được gọi là thuê bao Internet.

Lý thuyết mã hóa

Lý thuyết mã hóa (tiếng Anh: coding theory) là một ngành của toán học (mathematics) và khoa học điện toán (computer science)) nhằm giải quyết tình trạng lỗi dễ xảy ra trong quá trình truyền thông số liệu trên các kênh truyền có độ nhiễu cao (noisy channels)), dùng những phương pháp tinh xảo khiến phần lớn các lỗi xảy ra có thể được chỉnh sửa. Nó còn xử lý những đặc tính của mã (codes)), và do vậy giúp phù hợp với những ứng dụng cụ thể.
Có hai loại mã hiệu:
  1. Mã hóa dùng nguồn (Mã hóa entrôpi (Entropy encoding))
  2. Mã hóa trên kênh truyền (Sửa lỗi ở phía trước (Forward error correction))
Cái đầu tiên chúng ta nói đến là mã hóa dùng nguồn. Ý định của phương pháp này là nén dữ liệu từ chính nguồn của nó, trước khi truyền đi, giúp cho việc truyền thông có hiệu quả hơn. Chúng ta chứng kiến thói quen này hằng ngày trên Internet, nhất là trong cách dùng "zip" nén dữ liệu để giảm lượng dữ liệu phải truyền, giảm nhẹ gánh nặng cho mạng lưới truyền thông, đồng thời thu nhỏ cỡ tập tin. Cái thứ hai là mã hóa trên kênh truyền. Bằng việc cộng thêm những bit mới vào trong dữ liệu được truyền, còn gọi là bit chẵn lẻ (parity bits), kỹ thuật này giúp cho việc truyền thông tín hiệu chính xác hơn trong môi trường nhiễu loạn của kênh truyền thông. Có nhiều chương trình ứng dụng, mà người dùng trung bình không để ý đến, sử dụng mã hóa trên kênh truyền. Kỹ thuật Reed-Solomon được dùng để nhằm sửa lỗi do những vết xước và bụi trên bề mặt đĩa âm nhạc CD thông thường. Trong ứng dụng này, kênh truyền thông lại chính là bản thân cái đĩa CD. Điện thoại di động "Cell phones" cũng dùng kỹ thuật mã hóa có hiệu ứng cao (powerful coding technique) để sửa các lỗi trong việc truyền sóng rađiô ở tần số cao bị yếu mờ và bị nhiễu. Modem xử lý số liệu, việc truyền thông qua đường điện thoại, và đương nhiên ngay cả chính NASA, tất cả đều sử dụng kỹ thuật mã hóa trên kênh truyền hiệu ứng để truyền những bit số liệu qua đường dây.
Mã hóa dùng nguồn
Mục đích của mã hóa dùng nguồn là lấy dữ liệu nguồn và thu nhỏ chúng lại.
Xin xem thêm chi tiết trong bài viết Mã hóa dùng nguồn.
Nguyên lý
Entrôpi của nguồn là một đo đạc về tin tức. Căn bản mà nói, mã của nguồn được dùng để loại bỏ những phần thừa, không cần thiết còn tồn trong nguồn, để lại phần nguồn với số lượng bit ít hơn, nhưng với nhiều tin tức hơn.
Mỗi loại mã hóa nguồn sử dụng một kỹ thuật khác nhau hòng đạt được giới hạn entrôpi của nguồn. C(x) >= H(x), trong đó H(x) là entrôpi của nguồn (tần số bit), và C(x) là tần số bit sau khi số liệu đã được nén. Cụ thể là, không có phương pháp mã hóa nguồn nào có thể tốt hơn giới hạn entrôpi của ký hiệu (the entropy limit of the symbol).
Ví dụ
Truyền thông bản sao FAX dùng một kỹ thuật đơn giản là trường đạc mã (run-length code).
Mã hóa trên kênh truyền
Mục đích của lý thuyết Mã hóa trên kênh truyền (channel encoding theory) là tìm những mã có thể truyền thông nhanh chóng, chứa đựng nhiều mã ký (code word) hợp lệ và có thể sửa lỗi (error correction) hoặc ít nhất phát hiện các lỗi xảy ra (error detection). Các mục đích trên không phụ thuộc vào nhau, và mỗi loại mã có công dụng tối ưu cho một ứng dụng riêng biệt. Những đặc tính mà mỗi loại mã này cần còn tuỳ thuộc nhiều vào xác suất lỗi xảy ra trong quá trình truyền thông. Đối với một đĩa CD thông thường, lỗi trong âm thanh xảy ra chủ yếu là do bụi và những vết xước trên mặt đĩa. Vì thế, các mã được lồng vào với nhau. Dữ liệu được phân bổ trên toàn bộ mặt đĩa. Tuy không được tốt cho lắm, song một mã tái diễn đơn giản có thể được dùng làm một ví dụ dễ hiểu. Chẳng hạn, chúng ta lấy một khối số liệu bit (đại diện cho âm thanh) và truyền gửi chúng ba lần liền. Bên máy thu, chúng ta kiểm tra cả ba phần lặp lại ở trên, từng bit từng bit một, rồi lấy cái nào có số bầu cao nhất. Điểm trái khoáy ở đây là, chúng ta không chỉ truyền gửi các bit theo thứ tự. Chúng ta lồng nó vào với nhau. Khối dữ liệu này, trước tiên, được chia ra làm 4 khối nhỏ. Sau đó chúng ta gửi một bit ở khối đầu tiên, tiếp theo một bit ở khối thứ hai v.v tuần tự qua các khối. Việc này được lặp đi lặp lại ba lần để phân bổ số liệu ra trên bề mặt đĩa. Trong ngữ cảnh của mã tái diễn đơn giản ở trên, việc làm này hình như không được hiệu quả cho lắm. Song hiện nay có những mã có hiệu ứng cao, rất phù hợp với việc sửa lỗi xảy ra đột ngột do một vết xước hay một vết bụi, khi dùng kỹ thuật lồng số liệu nói trên.
Mỗi mã thường chỉ thích hợp cho một ứng dụng nhất định. Viễn thông trong vũ trụ (deep space) bị giới hạn bởi nhiễu nhiệt (thermal noise) trong thiết bị thu. Hiện trạng này không xảy ra một cách đột phát bất thường, song xảy ra theo một chu trình tiếp diễn. Tương tự như vậy, modem với dải tần hẹp bị hạn chế vì nhiễu âm tồn tại trong mạng lưới điện thoại. Những nhiễu âm này có thể được biểu hiện rõ hơn bằng một mô hình âm tạp tiếp diễn. Điện thoại di động "Cell phones" hay có vấn đề do sự suy sóng nhanh chóng xảy ra. Tần số cao được dùng có thể gây ra sự suy sóng tín hiệu một cách nhanh chóng (rapid fading), ngay cả khi máy nhận chỉ dời chỗ vài phân Anh (inches) 1. Một lần nữa, người ta hiện đã có một loại thuộc hạng Mã hóa trên kênh truyền được thiết kế để đối đầu với tình trạng suy sóng.
Từ "Lý thuyết mã hóa đại số" ám chỉ để một chi nhánh của lý thuyết mã hóa trên kênh truyền, trong đó đặc tính của mã được biểu hiện bằng các đại số và dựa vào đó mà nghiên cứu sâu hơn.
Lý thuyết mã hóa đại số được chia ra làm 2 loại mã chính
  1. Mã khối tuyến tính (Linear block codes)
  2. Mã kết hợp (Convolutional codes)
Chúng phân tích ba đặc tính sau của mã -- nói chung là:
  • Chiều dài của mã (code word length)
  • Tổng số các mã ký hợp lệ (total number of valid code words)
  • Khoảng cách Hamming tối thiểu giữa hai mã ký hợp lệ (the minimum Hamming distance between two valid code words)
Mã khối tuyến tính
Mã khối tuyến tính mang tính năng tuyến tính (linearity), chẳng hạn tổng của hai mã ký nào đấy lại chính là một mã ký; và chúng được ứng dụng vào các bit của nguồn trên từng khối một; cái tên mã khối tuyến tính là vì vậy (linear block codes). Có những khối mã bất tuyến tính, song khó mà chứng minh được rằng một mã nào đó là một mã tốt nếu mã ấy không có đặc tính này.
Bất cứ mã khối tuyến tính nào cũng được đại diện là (n,m,dmin), trong đó
  1. n, là chiều dài của mã ký, trong ký hiệu (symbols),
  2. m, là số ký hiệu nguồn (source symbols) được dùng để mã hóa tức thời,
  3. dmin, là khoảng cách hamming tối thiểu của mã (the minimum hamming distance for the code)
Có nhiều loại mã khối tuyến tính, như
  1. Mã tuần hoàn (Cyclic codes) (Mã Hamming là một bộ phận nhỏ (subset) của mã tuần hoàn)
  2. Mã tái diễn (Repetition codes)
  3. Mã chẵn lẻ (Parity codes)
  4. Mã Reed-Solomon (Reed Solomon codes)
  5. Mã BCH (BCH code)
  6. Mã Reed-Muller
  7. Mã hoàn hảo (Perfect codes)
Mã khối được gắn liền với bài toán "đóng gói đồng xu" là bài toán gây một số chú ý trong nhiều năm qua. Trên bề diện hai chiều, chúng ta có thể hình dung được vấn đề một cách dễ dàng. Lấy một nắm đồng xu, để nằm trên mặt bàn, rồi dồn chúng lại gần với nhau. Kết quả cho chúng ta một mẫu hình lục giác tương tự như hình tổ ong. Các mã khối còn dựa vào nhiều chiều khác nữa, không dễ gì mà hình dung được. Mã Golay 2 có hiệu ứng cao, dùng trong truyền thông qua khoảng không vũ trụ, sử dụng những 24 chiều. Nếu được dùng là mã nhị phân (thường thấy), các chiều ám chỉ đến chiều dài của mã ký như đã định nghĩa ở trên.
Lý thuyết về mã sử dụng mô hình hình cầu với số chiều "N". Lấy ví dụ, bao nhiêu đồng xu phải cần để phủ kín một mặt bàn, hay trong khoảng không 3 chiều, bao nhiêu hòn bi phải cần để nhồi kín một hình cầu. Những cân nhắc khác bao gồm việc chọn lựa mã. Lấy ví dụ, do nhồi nhữmg hình lục lăng vào trong một cái hộp hình chữ nhật, chúng ta để lại những khoảng trống ở các góc. Khi các chiều của hộp được tăng lên, tỷ lệ phần trăm so sánh của các khoảng trống nhỏ đi, cho đến một cỡ nào đấy, những phần nhồi chiếm hết các khoảng không và mã này được gọi mã hoàn hảo. Số mã kiểu này tương đối hiếm (Hamming [n,k,3], Golay [24,12,8],[23,12,7],[12,6,6])
Một điều thường bị bỏ qua là số lượng những hàng xóm kế cận (neighbors) mà một mã ký có thể có. Chúng ta có thể dùng lại ví dụ các đồng xu ở đây. Đầu tiên, chúng ta gộp các đồng xu lại theo các hàng hình chữ nhật. Mỗi một đồng xu có 4 đồng kế cận (và 4 cái ở bốn góc xa hơn). Trong bố cục của hình lục giác, mỗi đồng xu có 6 đồng kế cận. Khi chúng ta tăng số chiều lên, số lượng các đồng kế cận tăng lên một cách nhanh tróng.
Kết quả là số lượng các âm tạp, bên cạch các âm chính, mà máy thu có thể chọn, cũng tăng lên, và do đó mà gây ra lỗi. Đây chính là khuyết điểm căn bản của mã khối, và cũng là khuyết điểm của tất cả các loại mã. Có thể việc gây lỗi trở nên khó khăn hơn, nếu chỉ có một hàng xóm kế cận mà thôi, song con số các hàng xóm kế cận có thể lớn đến độ làm cho chính tổng xác suất lỗi bị ảnh hưởng (total error probability actually suffers).
Mã kết hợp
Mã kết hợp (Convolutional codes) được sử dụng trong các modem dải tần âm (voiceband modems) (V.32, V.17, V.34) và trong các điện thoại di động GSM3, cũng như trong các thiết bị truyền thông của quân đội vũ trang và trong các thiết bị truyền thông với vệ tinh.
Ý định ở đây là làm cho tất cả các ký hiệu mã ký (codeword symbol) trở thành tổng trọng số (weighted sum) của nhiều loại ký hiệu thông điệp trong nhập liệu (various input message symbols). Nó tương tự như toán kết hợp được dùng trong các hệ tuyến tính bất biến (linear time invariant systems) để dùng tìm xuất liệu (output) của một hệ thống, khi chúng ta biết nhập liệu (input) và các đáp ứng xung (impulse response).
Nói chung chúng ta tìm xuất liệu của bộ mã hóa kết hợp hệ (system convolutional encoder), tức sự kết hợp của nhập liệu bit, đối chiếu với trạng thái của bộ mã hóa kết hợp (convolution encoder), hoặc trạng thái của các thanh biến (registers).
Về cơ bản mà nói, mã kết hợp không giúp thêm gì trong việc chống nhiễu hơn một mã khối tương ứng. Trong nhiều trường hợp, chúng nói chung cho chúng ta một phương pháp thực thi đơn giản hơn, hơn hẳn một mã khối có hiệu quả tương ứng (a block code of equal power). Bộ mã hóa thường là một mạch điện đơn giản, có một bộ nhớ (state memory), một vài biện pháp truyền thông tin phản hồi báo tình hình (some feedback logic), thường là các cổng loại trừ XOR (XOR gates). Bộ mã hóa có thể được thực thi trong phần mềm hay phần sụn (firmware).
Thuật toán Viterbi (Viterbi algorithm) là một thuật toán ngắn gọn nhất (optimum algorithm) được dùng để giải mã các mã kết hợp. Hiện có những phương pháp giảm ước giúp vào việc giảm khối lượng tính toán phải làm. Những phương pháp này phần lớn dựa vào việc tìm tuyến đường có khả năng xảy ra cao nhất (most likely paths). Tuy không ngắn gọn, song trong môi trường nhiễu thấp hơn, người ta thường thấy chúng cho những kết quả khả quan. Các bộ điều hành vi xử lý hiện đại (Modern microprocessors) có khả năng thực hiện những thuật toán tìm giảm ước nói trên với tỷ lệ trên 4000 mã ký trong một giây.
Các ứng dụng của lý thuyết mã hóa
Một quan tâm khác của lý thuyết mã hóa là việc thiết kế các mã giúp vào việc đồng bộ hóa (synchronization). Một mã có thể được thiết kế để phát hiện dịch pha sóng điện (phase shift) và sửa lỗi, đồng thời cho phép nhiều tín hiệu (multiple signals) được truyền gửi trên cùng một kênh. Có một hạng loại của những mã mà chúng ta hằng ngày thường gặp trong các điện thoại di động của mình. Chúng được gọi là mã Đa truy nhập phân chia theo mã (Code Division Multiple Access - viết tắt là CDMA). Chi tiết về chúng thuộc phạm vi bên ngoài cuộc đàm luận ở đây, song nói một cách ngắn gọn, mỗi cái điện thoại được gắn cho một mã ký (codeword) lấy ra từ một hạng đặc biệt (special class) (ngành Đại Số). Trong khi truyền thông, mã ký được dùng để xáo trộn các bit đại biểu cho thông điệp âm thanh (voice message). Tại máy thu, một quy trình giải xáo trộn ("descrambling") được tiến hành để giải mã (decipher) thông điệp. Đặc tính của hạng mã ký này cho phép nhiều người dùng (với các mã khác nhau) sử dụng cùng một kênh truyền rađiô trong cùng một lúc. Máy thu, dùng chu trình giải xáo trộn, chỉ "nghe" thấy những người gọi khác như "nhiễu âm" ở độ thấp mà thôi.
Một hạng mã nổi tiếng khác nữa là mã Yêu cầu lặp lại tự động (Automatic Repeat reQuest - viết tắt là ARQ). Trong hạng phổ quát (general class) này, máy phát cho thêm các bit chẵn lẻ kiểm tra (parity check bits) vào các thông điệp dài hơn bình thường. Máy thu kiểm tra bit chẵn lẻ của thông điệp thu được và nếu nó phát hiện ra một sự bất đồng, nó sẽ yêu cầu máy phát truyền tin lại thông điệp. Hầu hết các mạng diện rộng (wide area networks) và các giao thức, ngoại trừ những cái hết sức đơn giản, đều sử dụng tái truyền thông ARQ. Những giao thức thông dụng bao gồm SDLC (IBM), TCP (Internet), X.25 (Quốc tế) và nhiều cái khác nữa. Hiện có nhiều nghiên cứu trên phạm vi rộng trong lĩnh vực về đề tài này do khó khăn trong việc so sánh giữa một gói dữ liệu đã bị từ bỏ (rejected packet) với một gói dữ liệu mới. Gói dữ liệu mới đến này là một gói mới hay là một gói cũ được truyền lại? Thường thì các hệ thống đánh số được sử dụng, tuy nhiên trong một số mạng truyền thông, gói dữ liệu có thể có một định danh khác, hoặc vấn đề này được dành lại cho tầng cao hơn (của giao thức) để nó yêu cầu truyền thông lại. TCP/IP là một giao thức điển hình sử dụng cả hai kỹ thuật. Trong bối cảnh đã kết nối, TCP/IP dành việc truyền thông lại cho mạng lưới truyền thông, và vì thế nó sử dụng mã hóa ARQ. Trong mạng lưới vô tuyến (wireless network), người ta không sử dụng ARQ. Thay vào đó, người ta dành trách nhiệm này cho chương trình ứng dụng kiểm nghiệm gói dữ liệu và yêu cầu việc truyền thông lại khi cần. Việc này có thể nâng cao lên đến mức độ đòi hỏi người dùng phải ấn nút "nạp lại" ("refresh" button) trên một trình duyệt web. Song, ngay cả cái này hiện nay vẫn ở trong hạng ARQ đang được nghiên cứu; người dùng bắt buộc phải can thiệp (the user just has to become involved).
Ghi chú
Chú giải 1:  Một phân Anh
viết là "inch", số nhiều là "inches" - bằng khoảng 25.4 mm hay 2.54 cm. Nguyên là chiều rộng của ngón tay cái.
Chú giải 2:  Ông Marcel JE Golay (1902-1989)
một nhà Toán học, Vật Lý học người Thụy sĩ có nhiều cống hiến trong lý thuyết mã hóa.
Chú giải 3:  GSM (tiếng Anh: Global System for Mobile communications - Hệ thống Viễn thông Di động Toàn cầu)
thế hệ thứ hai của kỹ thuật số, nguyên được phát triển ở châu Âu, song hiện nay chiếm trên 71% thị trường thế giới. Đầu tiên được phát triển trên dải tần 900MHz và tiếp đó được cải tiến nâng cấp cho các dải tần 850, 1800 và 1900MHz. Cái tên GSM nguyên đại diện cho cái tên "Groupe Speciale Mobile", tên của hội đồng CEPT, người khởi công quá trình tiêu chuẩn hóa GSM.


Bài viết ngoài đề cập đến mã hóa nguồn và mã kênh thì thiếu 1 cái là mã hóa mật (bảo mật thông tin)

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012

Suy hao

Đây là một tác động của môi trường truyền tới việc truyền tín hiệu

Cường độ của tín hiệu trên bất cứ một môi trường truyền nào đều bị suy giảm theo khoảng cách. Sự suy giảm này thường theo quy luật hàm logarit trong các đường truyền có định tuyến, hay theo một hàm phức tạp trong các môi trường không định tuyến tùy thuộc vào khoảng cách và áp suất không khí và cả các yếu tố mưa mù, khí hậu nữa. Tín hiệu suy giảm tác động đến các yếu tố sau :
  • Tín hiệu tại điểm thu phải đủ lớn để máy thu có thể phát hiện và khôi phục tín hiệu
  • Tín hiệu nhận được tại điểm thu phải đủ lớn để máy thu có thể phát hiện và khôi phục không bị sai lỗi
  • Độ suy giảm thường là một hàm tăng theo tần số
Thường để phát đi xa thì người ta cần các bộ khuếch đại lại tín hiệu và chuyển tiếp, với tần số càng cao thì thường bộ khuếch đại càng phải gần lại. Cần lưu ý là đấy là xu hướng chứ không phải luôn là như vậy như đây là hình vẽ độ suy giảm do mưa (vô tuyến), ta vẫn thấy có những chỗ võng xuống ở các đường  e, c.


Nếu sự suy giảm này là không ổn định mà luôn biến đổi thì gọi là fading
Suy hao không đều thì gây méo (tín hiệu chỗ suy hao nhiều chỗ suy hao ít nên nó không giữa nguyên được "hình hài ban đầu"). Nhưng nhắc đến suy hao thì thường mọi người thường nghĩ đến sự suy yếu của tín hiệu đều trên cả dải tần

Tác động của môi trường truyền tới việc truyền tín hiệu

Khi tín hiệu truyền qua môi trường (vô tuyến hay hữu tuyến) thì ít nhiều sẽ bị các tác động làm sai lạc. Các yếu tố ảnh hưởng đến truyền tin có thể kể tới là :
  1. Gây méo tín hiệu (distortion)
  2. Nhiễu (Interference)
  3. Suy hao
Trên là các yếu tố chính ảnh hưởng đến sóng điện từ (dùng trong di động và cáp đồng), ở các hệ thống khác lại khác ví dụ với hệ thống thông tin quang:
  1. Suy hao (quan trọng nhất)
  2. Tán sắc (quan trọng nhì)
  3. Hiện tượng phi tuyến (hệ thống tốc độ cao, đường dài dài mới quan tâm)
Mình không có thống kê đầy đủ các loại môi trường, nhưng theo những gì mình đọc thì là như vậy.

    Lý thuyết thông tin

    Lý thuyết thông tin là một nhánh của toán học ứng dụng và kĩ thuật điện nghiên cứu về đo đạc lượng thông tin. Lý thuyết thông tin được xây dựng bởi Claude E. Shannon để xác định giới hạn cơ bản trong các hoạt động xử lý tín hiệu chẳng hạn như nén dữ liệu hay lưu trữ và truyền dẫn dữ liệu. Ngay từ những ngày đầu, nó đã mở rộng phạm vi ứng dụng ra nhiều lĩnh vực khác, bao gồm suy luận thống kê, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, mật mã học, các mạng lưới bên cạnh mạng lưới viễn thông - chẳng hạn như trong thần kinh, sự tiến hóa và chức năng của các mã phân tử, lựa chọn mô hình trong sinh thái học, vật lý nhiệt, máy tính lượng tử phát hiện sao chép và các hình thức phân tích dữ liệu khác.

    Một độ đo cơ bản của thông tin là entropy, thường được diễn đạt dưới dạng số lượng bit cần thiết trung bình để lưu trữ hoặc dẫn truyền. Entropy lượng hóa sự không chắc chắn trong việc dự đoán giá trị của một biến ngẫu nhiên. Ví dụ như, xác định kết quả của một lần tung đồng xu công bằng (hai kết quả có khả năng như nhau) cho ít thông tin hơn (entropy nhỏ hơn) là xác định kết quả của một lần tung xúc sắc (sáu kết quả có khả năng như nhau).
    Các ứng dụng cơ bản của lý thuyết thông tin bao gồm nén không mất dữ liệu (chẳng hạn như ZIP), nén mất dữ liệu (chẳng hạn MP3, JPG), mã hóa kênh (chẳng hạn như trong DSL). Lý thuyết thông tin nằm ở phần giao nhau giữa toán học, thống kê, khoa học máy tính, vật lý, thần kinh, và kĩ thuật điện. Các ngành hẹp quan trọng của lý thuyết thông tin bao gồm mã hóa nguồn, mã hóa kênh, lý thuyết thông tin thuật toán, bảo mật theo lý thuyết thông tin.


    Tổng quan
    Khái niệm cơ bản của lý thuyết thông tin có thể được nắm bắt thông qua việc xem xét hình thức liên lạc phổ biến nhất của con người: ngôn ngữ. Hai yếu tố quan trọng của một ngôn ngữ ngắn gọn là: các từ thông dụng (như "một", "cái", "tôi") nên ngắn gọn hơn các từ kém thông dụng hơn (như "thông tin", "thợ thủ công") để các câu không bị quá dài. Sự cân bằng độ dài các từ như vậy cũng tương tự như trong nén dữ liệu và là một thành phần cơ bản của mã hóa nguồn. Ngoài ra, nếu một phần của câu không nghe được hoặc bị nghe nhầm do tiếng ồn, chẳng hạn như do có ô tô chạy qua, thì người nghe vẫn có thể đoán ra ý nghĩa của câu. Sự vững chắc đó là một thành phần thiết yếu cho hệ thống liên lạc điện tử cũng như cho ngôn ngữ. Tính chất đó trong truyền thông được đảm bảo bởi mã hóa kênh. Mã hóa nguồn và mã hóa kênh là những mối quan tâm chính của lý thuyết thông tin.
    Lý thuyết thông tin thường được xem là xuất phát từ bài báo quan trọng của Shannon (1948) mang tên "A Mathematical Theory of Communication". Mô hình trung tâm của lý thuyết thông tin cổ điển là vấn đề kĩ thuật của việc truyền dẫn thông tin trên một kênh nhiễu. Kết quả cơ bản trong lý thuyết này là định lý mã hóa nguồn của Shannon, khẳng định rằng tính trung bình, số bit cần dùng để mô tả kết quả của một sự kiện ngẫu nhiên chính là entropy của nó, và định lý mã hóa trên kênh nhiễu cũng của Shannon, khẳng định rằng việc liên lạc không lỗi trên một kênh nhiễu là có thể miễn là tốc độ truyền dữ liệu là nhỏ hơn một giới hạn nhất định, gọi là dung lượng kênh. Có thể đạt đến gần dung lượng kênh trong thực tế bằng cách sử dụng các hệ thống mã hóa và giải mã thích hợp.


    Bối cảnh lịch sử
    Sự kiện nổi bật đánh dấu sự khởi đầu của lý thuyết thông tin là bài báo của Claude E. Shannon "A Mathematical Theory of Communication" ở Bell System Technical Journal vào tháng 7 và tháng 10 năm 1948.
    Trước bài báo này, một số ý tưởng về lý thuyết thông tin đã được phát triển tại Bell Labs, trong trường hợp đặc biệt khi tất cả các sự kiện đều có cùng xác suất. Bài báo năm 1924 của Harry Nyquist, "Certain Factors Affecting Telegraph Speed", chứa một phần lý thuyết định lượng "tri thức" (intelligence) và "tốc độ đường truyền" (line speed), đưa ra mối liên hệ W = Klogm, trong đó W là tốc độ dẫn truyền tri thức, m là số cấp điện áp có thể sử dụng tại mỗi bước và K là một hằng số. Bài báo năm 1928 của Ralph Hartley, "Transmission of Information", sử dụng thuật ngữ "thông tin" (information) như một đại lượng đo được, thể hiện khả năng phân biệt giữa các dãy kí hiệu của người nhận, do đó lượng hóa thông tin bởi H = logSn = nlogS, trong đó S là số kí hiệu có thể sử dụng, và n là số kí hiệu được truyền đi. Đơn vị tự nhiên của thông tin do đó là một chữ số thập phân, sau này được đổi tên là hartley để ghi danh đóng góp của ông, là một đơn vị đo thông tin. Năm 1940, Alan Turing đã sử dụng những ý tưởng tương tự cho phân tích thông kê để phá bộ mã Enigma của Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai.
    Phần lớn lý thuyết toán học đằng sau lý thuyết thông tin với các sự kiện có xác suất khác nhau được xây dựng trong ngành nhiệt động học bởi Ludwig Boltzmann và J. Willard Gibbs. Mối liên hệ giữa entropy thông tin và entropy nhiệt động học, bao gồm đóng góp quan trọng của Rolf Landauer trong thập kỉ 1960, được mô tả trong trang Entropy trong nhiệt động học và lý thuyết thông tin.
      

    Đo lường thông tin
    Lý thuyết thông tin được xây dựng dựa trên lý thuyết xác suất và thống kê. Thông số quan trọng nhất của thông tin là entropy, lượng thông tin trong một biến ngẫu nhiên, và thông tin tương hỗ, lượng thông tin chung giữa hai biến ngẫu nhiên.

    Phần này lắm công thức, các bạn xem tại nguồn wiki nhé


    Lý thuyết mã hóa

    Một bức ảnh các vết xước trên bề mặt của một đĩa CD-R. Nhạc và dữ liệu lưu trên CD được mã hóa bằng mã tự sửa lỗi và do đó vẫn có thể đọc được ngay cả khi có những vết xước nhỏ, bằng cách sử dụng kĩ thuật phát hiện và sửa lỗi.
    Lý thuyết mã hóa là một trong những ứng dụng quan trọng và trực tiếp nhất của lý thuyết thông tin. Nó có thể được chia làm lý thuyết mã hóa nguồn và lý thuyết mã hóa kênh. Sử dụng kết quả thống kê cho dữ liệu, lý thuyết thông tin định lượng số bit cần thiết để lưu trữ dữ liệu (chính là entropy thông tin của dữ liệu).
    • Nén dữ liệu (mã hóa nguồn): Có hai hình thức nén dữ liệu:
    1. Nén không mất dữ liệu: dữ liệu phải được khôi phục chính xác
    2. Nén mất dữ liệu: phân bổ đủ số bit cần thiết để khôi phục dữ liệu, trong một độ chính xác định trước, đo bởi một hàm biến dạng.
    • Mã sửa lỗi (mã hóa kênh): Khi nén dữ liệu đã loại bỏ hoàn toàn phần dữ liệu thừa, một mã sửa lỗi thêm vào một số thông tin dự phòng để có thể truyền dữ liệu một cách hiệu quả và trung thực qua một kênh nhiễu.
    Cách phân chia lý thuyết mã hóa thành nén và truyền được giải thích bởi các định lý truyền thông tin, hoặc các định lý phân chia nguồn-kênh, trong đó lý giải việc sử dụng bit làm đơn vị chung cho thông tin trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên các định lý này chỉ đúng trong trường hợp một người gửi muốn truyền thông tin cho đúng một người nhận. Trong trường hợp có nhiều người gửi (kênh đa truy cập), hoặc nhiều người nhận (kênh phát sóng), hoặc có người trung gian giúp đỡ (kênh tiếp sức), hoặc tổng quát hơn, trong mạng máy tính, việc nén rồi truyền có thể không còn tối ưu. Lý thuyết thông tin trên mạng nghiên cứu về những mô hình truyền thông nhiều đối tượng.

    Truyền dẫn tín hiệu trên kênh thực

    Mình lấy luôn sơ đồ khối mô hình trong mô phỏng Astras (cuối kỳ học truyền dẫn 2) để minh họa mô hình kênh thực:

    Thực ra một môn truyền dẫn thì cũng không thể đủ được, đây chỉ là một mô hình trình bày về truyền dẫn tín hiệu trên kênh thực với các vấn đề và các giải pháp (các khối cần thêm để xử lý) ở mức cơ bản thôi. Các bạn có thể xem thêm chuyên mục "Các yếu tố ảnh hưởng đến truyền tin" để biết thêm về các vấn đề khi truyền tín hiệu trong nhiều môi trường khác nhau, giải pháp thì có rất rất nhiều và hiện tại vẫn luôn có những công nghệ mới đang được nghiên cứu. Ở đây cũng chỉ xét trên một kênh, các kênh khác có tác động như nhiễu. Nếu các bạn muốn xem tổng quát thì xem hệ thống thông tin số hay hệ thống truyền dẫn số

    Đầu vào là các symbol (nguồn tín hiệu), qua điều chế để truyền thông tin đi xa, ... mô hình rummler mô hình ảnh hưởng của kênh vi ba số tiêu biểu) và tạp âm Gao-xơ tiêu biểu cho nhiễu cơ bản trên đường truyền ... đến giải điều chế để lấy tín hiệu.
    Khả năng thày giáo cho mô phỏng kênh vi ba (vô tuyến).

    Các khối xử lý chưa đề cập ở trên gồm :
    - Lọc phát để tránh nhiễu ISI : Nguyên lý là tại thời điểm lấy mẫu (thời điểm thu tín hiệu) thì các kênh khác phải có tín hiệu bằng 0 (xem hình 3 trong nhiễu ICI ấy, phần hình bên tay trái, tại các điểm ---- lấy mẫu chỗ khác = 0 hết). Để có làm được điều đó thì người ta đề ra bộ lọc gọi là bộ lọc lý tưởng (Brick-wall filter) với đặc tuyến lọc dựng đứng (trên miền tần số), tuy nhiên không triển khai được vì :
    • Bộ lọc lý tưởng không thể chế tạo (sườn của đặc tuyến dựng đứng)
    • Giả sử có chế tạo được thì cũng không dùng được vì sai lệch đồng hồ phát là ISI ngay và ISI sẽ rất lớn nữa.
     Người ta đã nghĩ ra được một bộ lọc khác gọi là bộ lọc cosin nâng
    • Vẫn có tính chất bộ lọc lý tưởng.
    • Sườn đặc tuyến phải thoải (thì mới chế tạo được, nhưng thực ra các bộ lọc thực tế cũng chỉ gần đạt được cái đặc tuyến bộ lọc cosin nâng này).
    • Tương đối tiết kiệm phổ (chấp nhận đòi hỏi tốn phổ hơn bộ lọc lý tưởng nhưng mà ở mức chấp nhận được)
    • Khi có sai lệch đồng hồ -> ISI phải nhỏ (tổng các symbol đến vô hạn phải hội tụ - không tiến tới vô cùng)
    Để triển khai cái bộ lọc này thì người ta phân chia đặc tính lọc ra thành 2 bộ lọc căn cos (square root raised cosine filters) nên mới có loc phát và lọc thu như ở sơ đồ.

    - Trong tính toán tổng quát thì người ta xét xung PAM, và cái bộ lọc căn cos ở trên cũng chỉ đúng với xung PAM, với các tín hiệu khác thường là dạng NRz, có phổ dạng sinx/x, thì cần sửa nó lại thành dạng xung, và cái mạch này có dạng ngược (x/sinx) nên gọi là mạch sửa dạng xung x/sinx (x/sinx corrector). Lưu ý là nếu là tín hiệu dạng khác thì dùng mạch sửa dạng khác chứ không phải cái nào cũng tống x/sinx vào đâu nhé.

    Trong hình vẽ kia thì mạch lọc phát bao gồm cả 2 tính năng căn cos và x/sinx luôn.

    - HPA : khuếch đại tín hiệu

    - Khối san bằng thích nghi  trên miền thời gian (ATDE - Adaptive Time Domain Equalizer) và AGC (Automatic Gain Control):
    Dùng để chống fading (mở bài fading ra search ATDE và AGC nhé). Cũng trong bài fading đó đã giới thiệu nhiều biện pháp chứ không phải chỉ có mỗi 2 cái này.

    - Khôi phục sóng mang và khôi phục đồng hồ : dùng để khôi phục thông tin và lấy tín hiệu đồng bộ

    Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

    Hệ thống và tín hiệu thông thấp tương đương

    Xét tín hiệu s(t) sau điều chế dạng tổng quát :
    s(t) = A(t).cos[2πfct + φ(t)]  (phần đỏ là phần mang thông tin)
    = Re[A(t).ej[2πfct + φ(t)]­] = Re[A(t).ej[φ(t)]­. ej(2πfct)]

    s~(t) = A(t).ej[φ(t)] có các tên gọi là:
    • Tín hiệu băng gốc tương đương (equivalent baseband signal)
    • Tín hiệu đường bao phức (complex envelope)
    Trong tín toán, xây dựng hệ thống, thay vì nghiên cứu tín hiệu cao tần rất khó khăn, để thoát ly tín hiệu cao tần với bộ lọc thông dải ta có thể xét hệ thống băng gốc mang tinh với bộ lọc thông thấp (tần số nhỏ, dễ phân tích, dễ mô phỏng máy tính).


    Nguồn : lấy từ vở truyền dẫn thày Bình


    Tín hiệu trên s~(t) trông khá giống tín hiệu mang tin chưa điều chế, tuy nhiên
    s(t) = B(t).cos[φ(t)] (chưa điều chế) =  s(t) = Re{B(t).ej[φ(t)]} (tín hiệu là số thực - có thêm cái Re đó)
    còn cái kia là đường bao phức. Xem thêm
    Ngoài ra cái biên độ (ví dụ trong điều biên) của tín hiệu ban đầu (B(t)) phải cộng với biên độ sóng mang mới ra A(t).

    Reading - Toeic A

    Hi everybody.

    Chắc hẳn mọi người trước khi ra trường như mình đều mong muốn có một tấm bằng Toeic trong tay. Toeic là một chứng chỉ tiếng Anh quốc tế về giao tiếp dành cho người đi làm không phải là dân sử dụng tiếng Anh làm tiếng mẹ đẻ. Bây giờ hầu hết các nhà tuyển dụng khuyến khích và yêu cầu hồ sơ nộp ngoài tấm bằng đại học, thành tích học tập ra thì cần phải có kĩ năng giao tiếp bằng tiếng anh. Đây là một yếu tố bắt buộc với những công ty chuyên nghiệp trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay. Mình nói thế để các bạn nên xác định tư tưởng cho mình và mục tiêu cần phải được bao nhiêu điểm và phương pháp học tập đúng đắn. Phải nói thêm những gì mình viết trong đây là những kinh nghiệm, là những tổng hợp của mình trong quá trình học Tiếng Anh. Nếu các bạn là những pro, hay những người đã thành thạo tiếng anh thì có thể bỏ qua bài viết này.

    Phần Reading hay phần đọc. Phần này sẽ bao gồm khoảng 100 câu hỏi viết. Nó kéo dài trong khoảng 75 phút và được chia thành các phần nhỏ sau :
    • Phần 1: Điền vào chỗ thiếu trong câu - 40 câu hỏi
    • Phần 2 : Điền vào chỗ thiếu trong đoạn văn - 20 câu hỏi
    • Phần 3: Đọc hiểu - 40 câu hỏi
    Để nâng cao hiệu quả thì các bạn có thể đặt cho mình một số yêu cầu như :
    1. Chịu khó làm bài tập, điều này là rất quan trọng, quá trình làm bài tập mình sẽ nhớ từ mới hơn, biết được nhiều cấu trúc, cụm từ và sẽ đúc rút dần được kinh nghiệm.
    2. Học các từ mới, làm giàu vốn từ mọi lúc bạn có thể ở mọi nơi ^^.
    3. Tạo thời khóa biểu học tập rõ ràng. Phải biết hy sinh 1 vài thứ hay ho để cho mục tiêu trước mắt ^^. Cái này nói thật là mình cũng chưa làm tốt được.

    Thôi ta bắt đầu vào luôn bài . Mình nghĩ sẽ sắp xếp thành các Unit để có thể kết hợp được giữa ngữ pháp và từ vựng và các kĩ năng trong quá trình học. Mình sẽ liên tục bổ sung để hoàn thiện hơn nữa những gì mình tiếp thu được. Xin nhắc lại đây chỉ là những gì mình tiếp thu được, có thể vẫn là non tay nhưng mình sẽ cố gắng. Nothing is impossible ^^.

    Unit 1

    A. Ngữ Pháp

    1. Thứ nhất là trợ động từ (Auxiliary Verbs) còn được biết đến như động từ giúp đỡ. Một số đặc điểm nhận biết :

    • Đứng trước động từ chính trong câu
    • Bao gồm các dạng :
    +be, have, do
    - Với Be : sử dụng như trợ động từ trong câu bị động/ tiếp diễn. Ví dụ như : I am cleaning hay This glass is broken
    - Với Have : sử dụng như trợ động từ trong câu ở thì hoàn thành. Ví dụ : I have completed my work.
    - Với Do : sử dụng trong câu hỏi, câu phụ định. Ví dụ như : Do u like game online? hay I dont like coffice.
    + can- could, may-might, must-have to, shall-should, had-better, ought, need : đây là các trợ đồng từ khuyết thiếu. Gọi là các động từ khuyết thiếu vì chúng không thể sử dụng mà không có động từ chính. Chúng được sử dụng với các động từ chính để nói về hành động, sự kiện, địa thế tồn tại trong nhận thức đầu óc.
    - theo các động từ này động từ để ở dạng nguyên thể. Form : Modal Verbs + V base form
    Ví dụ : He may arrive tomorrow
    Can u speak English?
    - Tìm hiểu kĩ một chút nhé :
    • May/Can: dịch ở đây là có thể, có khả năng làm việc gì. ví dụ như : It may rain tomorrow hay I can go out on evening sunday.
    • Must/ have to: xác nhận phải làm gì. Có một sự khác biệt ở đây là : must thì được dùng trong câu có tính chất chủ quan, còn have to được sử dụng trong câu có tính chất khách quan. Ví dụ như : I must go now và i have to study tonight.
    • Shall : dự định, quyết định và chỉ dùng với đại từ là I và we. Ví dụ như : we shall aske the commitee
    • should/ ought to/ had better : nên làm gì. Ví dụ : I should call her hay I ought to do homework early

    Các bạn có thể xem thêm tại : http://globaledu.com.vn/Upload/document/TOEIC/Auxiliary%20Verbs.pdf

    2. Danh động từ ( Gerund)

    +Chúng được gọi là danh động từ vì ta sử dụng bằng cách thêm ing vào sau động từ.

    + Một số trường hợp cần phải chú ý như :

    • từ đơn, kết thúc là -e thì bỏ e trước khi thêm đuôi -ing. Ví dụ như : come - coming
    • Nhưng từ có kết thúc là -ee thì không được thay đổi. Ví dụ : agree - agreeing
    • Với những từ động từ ngắn, nguyên âm đứng giữa 2 phụ âm. Ta gấp đôi am tiết cuối trước khi thêm đuôi ing. Ví dụ như : sit - sitting, stop - stopping.Example : I am sitting on the sofa
    • Với phụ âm L đứng cuối sau một nguyên âm, ta gấp đôi trước khi thêm đuôi -ing. Ví dụ: travel - travelling. Example : I am travelling around world.
    • Các từ mà kết thúc là đuôi -ie thì ta chuyển thành -y rồi thêm đuôi ing. Ví dụ : lie - lying. Example : I am lying my friends
    + Cách sử dụng danh động từ :
    • Sử dụng chúng như một danh từ, hoặc chủ ngữ hoặc tân ngữ. Ví dụ : Playing football is very good.
    • Sử dụng sau các động từ sau: admit,intend,prefer,avoid,keep,begin,like,quit,continue,look forward,recommend,deny,to,regret,enjoy,love,remember,finish,mean,start,forget,mention,stop,go,mind,suggest,go on,miss,try,hate,practice, get used to, cant help, cant stand . Ví dụ : He goes fishing on sundays hay she begin shopping on morning weekends.
    • Sử dụng danh động từ sau cấu trúc : " go+ verbs" với các động từ sau : camp, hunt, dance, swim. Vị dụ : Today I go swimming with my friends.

    3. Dạng nguyên thể ( Infinitives)

    a. Chúng ta sử dụng: " to +Vo" sau các động từ sau đây :

    Afford, Agree, Arrange, Attempt, Intend, Pretend, Seem, Want, care, help, choose, come, expect, hope, promise, try, wish, determine, manage, demand, decide, learn, need, refuse+ "to Vo"

    Ví dụ : I want to learn English.

    b. Chúng ta sử dụng : " to +Vo" sau các động từ + tân ngữ sau : (V+O+to V)

    Advise, Allow, ask, believe, know, Permit, Persuade, challenge, Consider, Expect, lead, teach,understand, want, get, find, need, tell, wish, invite, help, order, beg .. + to do st

    Ví dụ : She allow to do homework for me.

    c. Sử dụng dạng nguyên thể trần sau một số động từ hoặc cụm động từ sau :

    Have, let, make, feel, see, hear, smell, watch, notice, had better = should, would rather = prefer. Đây là các động từ chỉ xúc giác, vì vậy mà ta không thể để dạng nguyên thế với các động từ đi sau đó.

    Chú ý :

    Một số động từ có thể đi sau là danh động từ hoặc dạng nguyên thể mà nghĩa giống nhau :

    Example : He continued searching for the cat <-> He continued to search for the cat

    Một số động từ có thể đi sau là danh động từ hay dạng nguyên thể mà nghĩa khác nhau :

    Example : He tried drinking some Vodka <-> He tried to drink some Vodka



    Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

     
    Design by NewWpThemes | Blogger Theme by Lasantha - Premium Blogger Themes | New Blogger Themes